Quán
tính thống trị, thống trị theo kiểu bạo chúa và quán tính thần phục,
thần phục đến độ nô lệ, là hai trong những nét đặc trưng của các đảng
Cộng sản và các chế độ Cộng sản. Nói cách khác, chủ nghĩa CS chưa bao
giờ là một chủ nghĩa để xây dựng một chính đảng hay một quốc gia có
tinh thần độc lập với những thành viên tự do. Nó là chủ nghĩa cá lớn
hiếp cá bé một cách tàn bạo: Đảng CS lớn hiếp đảng CS bé, và đảng viên
CS to hiếp đảng viên CS nhỏ (chưa kể đảng CS hiếp đáp toàn thể nhân dân
mình). Điều này thấy rõ qua sự khống chế tàn khốc của Cộng hòa Nga đối
với 14 cộng hòa còn lại trong Liên bang Xô viết trước đây; sự can thiệp
thô bạo của đảng CS Liên Xô vào các đảng CS Đông Âu lẫn các đảng CS nhỏ
khắp thế giới, kể cả các đảng CS tại những quốc gia tư bản trước năm
1990; sự uy hiếp trắng trợn của đảng CS Trung Quốc đối với các đảng CS
ở Đông Dương lúc này… Riêng trong mỗi đảng CS là sự thống trị kiểu bạo
chúa của Bộ chính trị trên các đảng viên bên dưới và của kẻ quyền lực
nhất trên các thành viên còn lại của Bộ Chính trị.
Rumani từng
phải đào một thủy lộ lớn -với giá hàng trăm ngàn sinh mạng công dân của
mình- để chuyên chở tài sản đất nước qua Liên Xô. Maurice Thorez và
đảng CS Pháp từng ca tụng Liên Xô “đã đào tạo con người trưởng thành
rất sớm” khi Stalin hạ mức án tử hình xuống ngang 14 tuổi. Một đảng
viên CS Đông Đức từng mặc áo mưa, tay che dù đi giữa trời nắng tại
Berlin chỉ vì lúc ấy bên Moskva trời đang mưa xối xả. Hồ Chí Minh từng
tuyên bố trên quả địa cầu này, ai cũng sai lầm hết, trừ hai lãnh tụ bất
khả ngộ là Stalin và Mao. Stalin từng giết hết tất cả các ứng viên kế
vị Lênin trong Bộ Chính trị để trở thành “Người Số một”. Mao cũng từng
thanh trừng các đại đồng chí như Lâm Bưu và Lưu Thiếu Kỳ, chỉ chừa lại
Chu Ân Lai vốn tôn sùng Mao như một tên nô lệ…
Đảng CSVN, sau
thời kỳ ban đầu tùng phục hai đàn anh lớn là Liên Xô và Trung Quốc, đã
chuyển sang tùng phục Liên Xô và kết án Trung Quốc thậm tệ (xem cuốn
“Sự thật về quan hệ Việt-Trung trong 30 năm qua” do bộ Ngoại giao CSVN
công bố ngày 04-10-1979). Sau khi Liên Xô sụp đổ đầu năm 1990, CSVN
quay lại thần phục Trung Quốc vì không còn biết tìm chỗ dựa nơi nào
khác qua màn “thú tội, qui hàng” ô nhục tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ
Xuyên, TQ, vào tháng 9 cùng năm này. Quán tính thần phục do vô tổ quốc,
vô dân tộc mà lỵ! Kể từ thời điểm đó, sự lệ thuộc chủ-tớ, sự gắn bó
răng-môi, sự kết nối ca-đệ ngày càng khiến Việt Cộng sa vào vòng tay
Trung Cộng, Nam phiên cuốn vào quỹ đạo Bắc triều. Mối quan hệ này được
đánh dấu bằng những hiệp định bất bình đẳng về biên giới và vịnh biển
năm 1999 và 2000, bằng những cuộc khấu đầu bái yết của các tân tổng bí
thư, tân bộ chính trị CSVN sau từng đại hội đảng, bằng những cuộc trình
báo xin phép của các phái đoàn CSVN trước khi đi thương lượng với chính
giới Mỹ-Âu, bằng những tuyên bố chung bất lợi cho VN năm 2001, 2008 (về
khai thác bauxite), bằng những công trình đang được khai triển ở VN và
các quốc gia lân cận như xây dựng xa lộ Trường Sơn, mở rộng đường số 9
nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua Quảng Trị, xây dựng nhà
máy lọc dầu Dung Quất ở Quảng Ngãi, khai thông lòng Cửu Long để tàu vận
tải nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy, thiết lập xa lộ nối liền
Nam Ninh và Hà Nội, miễn hộ chiếu cho người Trung Quốc vào tận mũi Cà
Mau, cho phép hình thành những làng Tàu từ Nam chí Bắc và đặc biệt là
để cho Trung Quốc khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên. Nhưng đau
thương nhất và ô nhục nhất, mối quan hệ Việt Trung ấy được đánh dấu
bằng những cuộc tàn sát, bắt bớ, cướp bóc ngư dân VN trên biển kể từ
năm 2005 đến giờ mà CSVN chỉ phản kháng lấy lệ đôi lần, ngoài ra không
có hành động gì cụ thể đối với Trung Quốc lẫn trước quốc tế (xin xem
Kháng thư số 25 của Khối 8406) và bằng những cuộc cấm cản, bắt bớ, xử
tù những ai khơi dậy tinh thần phản kháng quân Tàu. Bàn tay lông lá của
Trung Quốc quả đã thọc sâu và thô bạo!
Đầu tiên có lẽ phải kể
đến vụ xử nhà luật học trẻ Lê Chí Quang vào ngày 08-11-2002, đúng hôm
khai mạc Đại hội đảng CS Trung Quốc lần thứ 16. Đây là món quà kính
tiến và tạ lỗi với Đại ca vì đã lỡ để cho một tên nhãi nhép công bố
khắp thế giới bài “Hãy cảnh giác Bắc Triều” viết cách đó một năm. Tiếp
đến là việc dẹp cuộc biểu tình của sinh viên, trí thức, nghệ sĩ, dân
oan vào các ngày 09, 16, 23-12-2007 chống Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn
việc thành lập huyện Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam để trực tiếp quản lý ba
quần đảo biển Ðông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của nước Việt;
việc dẹp cuộc biểu tình của sinh viên ngày 19-01-2008 để tưởng niệm 34
năm Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, khiến cho 58 lính hải quân VNCH tử
trận vì bảo toàn lãnh thổ; việc dẹp cuộc biểu tình ngày 29 và
30-04-2008 của sinh viên học sinh và giới dân chủ phản đối việc rước
đuốc Olympic Bắc Kinh qua Sài Gòn; rồi việc dẹp cuộc biểu tình ngày
06-12-2008 của thanh niên sinh viên trước Đại sứ quán lẫn Lãnh sự quán
Trung Quốc để phản kháng nước này đã chi gần 30 tỉ Mỹ kim hầu khai thác
dầu khí trên vùng biển thuộc chủ quyền VN.
Tiếp đến là một loạt
bắt bớ các nhà dân chủ có tinh thần chống Trung Quốc, mà đầu tiên là
luật sư Lê Công Định hôm 13-06-2009, một ngày sau chuyến viếng thăm của
Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương
Trung Cộng. Ngoài lý do gọi là “tuyên truyền và hoạt động chống nhà
nước, vi phạm điều 88” của vị luật sư này, còn có lý do sâu xa là ông
đã dự định kiện ra quốc tế việc Tàu xâm phạm hải phận Việt và cấm ngư
dân Việt đánh cá trên biển Đông.
Vụ bắt hai nhà dân chủ, một
già một trẻ là Trung tá Trần Anh Kim và thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung ngày
07-07 cũng không ngoài lý do sâu xa là chống Trung Quốc. Chính bản tin
báo Công an mạng cùng ngày viết: “Bên cạnh đó [việc thành lập Tập hợp
thanh niên Dân chủ và tham gia đảng Dân chủ Nhân dân], Trung còn kích
động sinh viên, thanh niên biểu tình gây rối tại Hà Nội và TP HCM trong
các ngày 9, 16, 23-12-2007 và ngày 29-04-2008”. Nhà dân chủ trung tá
Trần Anh Kim là một cựu chiến binh và cựu chỉ huy trong trận chiến biên
giới với Trung Quốc ngày 17-02-1979, một cuộc chiến mà Hà Nội nay không
muốn làm lễ kỷ niệm. Chính ông đã viết bài “Cuộc chiến tranh biên giới
phía bắc sau 30 năm! Kỷ niệm 30 năm chiến đấu, chiến thắng quân bành
trướng bá quyền Bắc Kinh”.
Trước vụ Trần Anh Kim hai tuần, kỳ
họp thứ 5 của Quốc hội CSVN khóa XII -bế mạc hôm 20-06 với lời kết luận
của chủ tịch Nguyễn Phú Trọng là QH đồng thuận về việc khai thác
Bauxite ở Tây Nguyên- đã như một gáo nước lạnh dội lên những bức thư
cảnh tỉnh của đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều tướng lãnh, những phản
biện đầy tinh thần trách nhiệm của các nhà khoa học VN trong lẫn ngoài
nước, những chữ ký nơi bản kiến nghị của trên 2000 nhà trí thức ái
quốc, những lời phát biểu thẳng thắn của vài đại biểu Quốc hội trước sự
mất còn của dân tộc trước hiểm họa Bắc triều. Bộ Chính trị Việt Cộng
vẫn như con rối dưới sự điều khiển của bàn tay lông lá Trung Cộng, một
bàn tay sắt thủ sẵn nhiều hăm dọa tiết lộ những bí mật động trời của
đảng CSVN, bọc trong một cái găng nhung là hàng trăm triệu đôla tọng
vào miệng các thành viên bộ Chính trị, đặc biệt là Nguyễn Tấn Dũng,
theo như dư luận đồn đoán.
Đến ngày 29-06, một vụ đàn áp làm
giới Phật tử ở trong lẫn ngoài nước kinh ngạc đã xẩy ra tại Tu viện Bát
Nhã thuộc xã Dambri, tỉnh Lâm Ðồng. Gần 400 tăng ni và cư sĩ đang tu
tập ở đó đã bị cắt điện cắt nước, phá cửa phá nhà, chửi bới đánh đập và
có thể bị đuổi khỏi tu viện bởi nhà cầm quyền phối hợp với Phật giáo
quốc doanh, công an cảnh sát và đầu gấu côn đồ. Một trong những lý do
sâu xa là người sáng lập tu viện, thiền sư Nhất Hạnh, từng tuyên bố tại
Roma đầu năm 2008 những lời ủng hộ cuộc tranh đấu của nhân dân Tây Tạng
(03-2008) khi được báo chí phỏng vấn. Ông cũng từng đề nghị ban tổ chức
đại lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc nên mời Ðức Ðạt Lai Lạt Ma tới VN tham
dự lễ này. Những ý kiến đó khiến Bắc Kinh nổi giận. Nên đến tháng
5-2008, khi về dự lễ Vesak thì nhà cầm quyền Trung Quốc đã yêu cầu nhà
cầm quyền Hà Nội trục xuất ông.
Đầu tháng 7, Hồ Tỏa Cẩm, Tham
tán Kinh tế Thương mại, thừa ủy quyền đại sứ Trung Quốc tại VN, đã
ngang nhiên “nhắc nhở” Hà Nội (mà Hà Nội vẫn im thin thít) về việc một
số chuyên viên và cơ quan truyền thông VN (trong cuộc tọa đàm hôm 16-06
tại tòa báo VietNamNet) đã dám chỉ trích chất lượng hàng hoá Trung
Quốc, và yêu cầu Hà Nội khuyến cáo nhân sự này. Ngoài ra, trong lúc Bắc
Kinh đang bị thế giới lên án gay gắt vì đã giết chết 156 người và làm
bị thương 1000 người Uyghur tại thủ đô Urumqi, Tân Cương hôm mồng
5-7-2009 thì Lê Dũng, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao, lại tuyên bố rằng
VN tán đồng các giải quyết của Trung Quốc tại đó.
Tất cả những
sự kiện trên đây, và còn vô vàn sự kiện khác nữa, cho thấy CSVN đã và
đang vuốt đuôi Trung Quốc, kể cả những vuốt đuôi mang tính nhục nhã và
tai hại, do chỗ bàn tay lông lá của Trung Quốc không bao giờ ngưng động
đậy trên đầu và sau lưng các lãnh đạo CSVN.
Ông Ngô Đình Nhu
lúc sinh tiền từng nói : "Tiêu diệt chế độ này [Đệ I Cộng hòa của Tổng
thống Ngô Đình Diệm] thì chỉ sau khoảng một giáp, Việt Cộng sẽ thắng.
Sau đó chừng vài giáp, một là hết Việt Cộng, hai là Trung Cộng sẽ thôn
tính VN". Phải chăng lời tiên tri ấy sắp thực hiện? Trước tình thế nguy
cấp này, phận sự của mọi người dân Việt, trong đó có các tín đồ, là
phải chống nội thù bán nước trước để chống ngoại thù cướp nước sau. Dù
tôn giáo không "thay thế các hữu trách chính quyền", nhưng trong trường
hợp này (như tại Đông Âu và Liên Xô), phải góp công "thay thế cả một
chính quyền" bất chính, bất lực và bất nhân, thưa Quý vị lãnh đạo tinh
thần, bằng không thì sẽ mắc tội với Tổ quốc, Dân tộc!
BAN BIÊN TẬP Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 79 (15-07-2009)
|