Buổi điều trần hôm 15/07 trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa
Kỳ được cho là dấu hiệu chứng tỏ sự quan tâm lớn hơn của chính quyền
Obama đối với tranh chấp Biển Đông và sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Tại
phiên điều trần, các chuyên gia được mời đã đề cập tới một
loạt các sự kiện xảy ra gần đây, trong có vụ đối đầu giữa
tàu của Mỹ và tàu Trung Quốc.
Trợ
lý Bộ trưởng Ngoại giao chuyên trách Đông Nam Á, Đại sứ Mỹ
tại khối ASEAN, Scot Marciel, nói Bắc Kinh đã cảnh báo các công
ty dầu khí Mỹ và nước ngoài không làm ăn với Việt Nam trong
khu vực tranh chấp, nếu không sẽ gặp khó trong việc kinh doanh
với Trung Quốc.
Theo ông Marciel, quan điểm nhất quán của
Hoa Kỳ là phản đối các động thái đe dọa các công ty Mỹ và
đã bày tỏ quan ngại về việc này với Bắc Kinh.
Phó phụ
tá Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, Robert Scher, nói Lầu Năm Góc xác định
lực lượng của Mỹ sẽ tiếp tục ở lại Đông Nam Á, xây dựng quan hệ an ninh
chặt hơn với các đối tác trong vùng, trong đó có Việt Nam.
Ông
Scher cũng nói bộ quốc phòng muốn củng cố cơ chế ngoại giao - quân sự
với Trung Quốc để cải thiện liên lạc và giảm nguy cơ hai phía có những
tính toán sai lầm.
Ba nhà nghiên cứu từ các trường, viện ở
Washington cũng có mặt và cho biết quan điểm của họ, tại buổi điều trần
do Thượng nghị sĩ Jim Webb làm chủ tọa.
Để có bình luận về sự
kiện này, BBC Việt ngữ đã phỏng vấn Tiến sĩ David Scott, Đại học
Brunel, London, tác giả của nhiều cuốn sách và bài viết về Trung Quốc
và quan hệ quốc tế ở châu Á.
David Scott: Tôi
chú ý phần trình bày của người phát ngôn bộ quốc phòng (Robert Scher)
phần nào đó cứng rắn hơn phát ngôn của người của bộ ngoại giao (Scot
Marciel). Bàn về việc Mỹ có thể làm gì, người của bộ quốc phòng nói
thẳng về sự khẳng định quyền của Mỹ, duy trì sự nổi bật về quân sự
trong vùng. Cũng đáng chú ý khi ông ta chỉ ra việc củng cố lực lượng ở
căn cứ Guam như một nơi biểu dương sức mạnh trong khu vực.
BBC:Nhưng đã có sự thống nhất về chính sách ở trong chính quyền Obama chưa, thưa ông?
Câu
hỏi đặt ra là chính quyền Obama sẽ tiếp tục hoặc thay đổi chính sách
của chính quyền Bush đến mức nào. Có ba điểm làm tôi chú ý ở chính
quyền Obama mà chúng đều có liên quan tới Biển Đông.
Thứ nhất,
sự nhấn mạnh của chính phủ Bush về Iraq đã bị giảm nhẹ. Khi Obama quyết
định triệt thoái khỏi Iraq và tập trung vào Afghanistan, phần nào, đó
là sự kêu gọi Mỹ quay lại với châu Á Thái Bình Dương thay vì Trung
Đông. Thực ra diễn tiến này có lẽ đã xảy ra 10 năm trước, nhưng rồi
bỗng chốc có vụ 11/09, al-Qaeda chi phối chính quyền Bush. Nhưng nay ở
mức độ nhất định, mối đe dọa này đã giảm bớt và sự trỗi dậy của Trung
Quốc lại trở thành ưu tiên của Mỹ.
Thứ hai, ngay sau khi xảy
ra vụ va chạm đầu năm ở Biển Đông liên quan tàu Impeccable, chính quyền
Obama đã tuyên bố và có vẻ quả thực đã điều động thêm tàu Mỹ ra yểm trợ
tại đó. Mỹ chứng tỏ họ không nhượng bộ.
Thứ ba, đã có thắc mắc
liệu cam kết của Bush xây dựng căn cứ tại Guam có được tiếp tục thực
hiện hay không. Nhưng hành động đầu tiên mà Hillary Clinton thực hiện
trong chuyến thăm châu Á với tư cách ngoại trưởng là ký thỏa thuận về
Guam khi bà thăm Nhật hồi tháng Hai.
Kết hợp tất cả những động
thái này, theo tôi, chính quyền Obama có thể sẽ có thái độ mạnh mẽ hơn
về Biển Đông so với chính phủ Bush trước đây. Người ta cứ nói Obama
đang chủ trương đối thoại (engagement) hơn đối nghịch; dĩ nhiên ông ấy
ủng hộ đối thoại. Nhưng khi ta quan sát diễn biến ở Biển Đông, chính
quyền Obama có những quyết định cứng cựa, ít nhất là trong ngôn từ.
BBC:Ông hình dung suy nghĩ ở Bắc Kinh về thái độ của Mỹ là như thế nào?
Nếu
tôi là Trung Quốc, tôi sẽ quan sát rất kỹ mỗi lần quan chức Mỹ thăm
Việt Nam, mỗi lần tàu Mỹ cập cảng Việt Nam...Trên giấy tờ, Mỹ tiếp tục
giữ vai trò trung lập. Nhưng Trung Quốc sẽ chú ý bất kỳ mối dây liên hệ
nào, dù kinh tế hay chính trị, giữa Mỹ và Việt Nam.
Trong mắt
Bắc Kinh, Mỹ đang nói nhiều ngôn ngữ. Mỹ nói phải đối thoại với Trung
Quốc, nhưng Mỹ cũng theo đuổi những động thái cân bằng sức mạnh trong
vùng. Trung Quốc đối diện với chiến lược phòng hờ (hedging) kinh điển:
đối thoại với Trung Quốc nhưng đồng thời cũng tăng cường sức mạnh cho
Mỹ. Đó không phải là sự kiềm chế công khai và cứng rắn. Vì thế, trên
giấy tờ, Mỹ là trung lập, nhưng phần nào đó tôi thấy Mỹ ngả về Việt Nam
một phần vì các công ty Mỹ quan tâm chuyện khai thác ở vùng biển do
Việt Nam kiểm soát.
BBC:Có vẻ như trong mắt
Trung Quốc, trong vấn đề Biển Đông, người này được đồng nghĩa với người
kia mất. Tức là không thể xảy ra việc Trung Quốc nhượng bộ?
Thật
khó trả lời. Một mặt, đây vẫn có thể là trò chơi mà tất cả đều thắng.
Bắc Kinh đã đề nghị tạm gác đòi hỏi chủ quyền, hãy cùng nhau khai thác.
Nhưng mặt khác, Biển Đông là vấn đề tranh chấp lãnh thổ và với người
Trung Quốc, chủ quyền lãnh thổ rất nhạy cảm. Biển Đông phần nào đó
giống như Đài Loan: lấy lại cái mà họ xem đã bị mất là vấn đề thể diện
cho Trung Quốc.
Kết hợp điều đó với nhu cầu năng lượng, Biển
Đông ngày càng quan trọng với Trung Quốc. Vì thế, có dấu hiệu rõ ràng
Trung Quốc đang củng cố lực lượng quân sự ở Biển Đông. Cùng lúc, Mỹ
cũng hăng hái hơn với Biển Đông. Tôi cho rằng tình hình Biển Đông đang
trở nên xấu đi.
BBC: Quan điểm của Mỹ là
không để căng thẳng tại đây biến thành đe dọa cho quyền lợi của họ.
Theo ông, liệu Trung Quốc có thể đảm bảo cho cả quyền lợi của Trung
Quốc và Mỹ? Ví dụ, thuyết phục các công ty dầu khí Mỹ hợp tác với Trung
Quốc thay vì các nước khác.
Rất thú vị. Nếu Bắc Kinh bảo,
quý vị muốn có thỏa thuận trong vùng biển tranh chấp thì hãy giao thiệp
với chúng tôi, chúng tôi sẽ cấp phép, ai nấy đều vui vẻ. Chuyện đó có
thể làm được, vì những quốc gia như Việt Nam hay Philippines không thể
gây áp lực với công ty Mỹ, trong khi Trung Quốc có thể.
Nhưng
mặc dù việc cung cấp năng lượng có thể được dàn xếp giữa Bắc Kinh và
Washington, quyền lợi chiến lược của Mỹ còn lớn hơn thế. Sự biểu dương
sức mạnh của Trung Quốc trên biển, dù có thể đem lại hợp tác kinh tế
cho công ty Mỹ, lại sẽ cản trở những tính toán địa chính trị của Mỹ.