Bùi Văn Phú gửi diễn đàn X-Cafe
Một vài năm trước ngày 30.4.1975, ở Sài Gòn tôi nghe nhiều
về những nhân vật đối kháng với chính quyền Việt Nam
Cộng hoà như các linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan
Khắc Từ, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, học sinh Lê Văn Nuôi.
Những nhân vật này thường xuyên xuống đường biểu tình
chống chính phủ. Hai lãnh tụ sinh viên học sinh là Huỳnh
Tấn Mẫm và Lê Văn Nuôi hay bị cảnh sát bắt giam, nhiều
lần bị đưa vào nhà tù Chí Hoà. Những việc làm đó của
chính quyền Sài Gòn bị dư luận thế giới lên án. Nhờ sự
lên tiếng can thiệp của những tổ chức nhân quyền như Ân
xá Quốc tế (Amnesty International) có trụ sở ở Luân Đôn,
của lãnh đạo những quốc gia tự do dân chủ nên những thanh
niên này được trả tự do để họ tiếp tục biểu tình,
đòi hỏi thống nhất đất nước, giành lại quyền tự
quyết cho dân tộc. Nhưng cũng có những người tranh đấu bị
bắt đi biệt tích, như trường hợp của Ngô Kha ở Huế.
Sau tháng 4.1975 tôi qua Mỹ.
Thời sinh viên, trong trường có quen với bà Laola Hironaka là
trưởng nhóm sinh hoạt của Ân xá Quốc tế tại Đại học
Berkeley. Là người luôn quan tâm đến nhân quyền tại Việt
Nam từ nhiều năm, bà muốn tìm hiểu về hiện tình nhân
quyền ở đó và có mời tôi đến nói chuyện với sinh viên
trong nhóm, không đông lắm, chừng 20 người. Lúc đó là năm
1978, theo tin tức từ quê tôi nhận được thì đã có rất
nhiều bà con, cũng như hàng xóm láng giềng đã phải đi học
tập cải tạo từ ba năm nay chưa được về. Nhiều văn nghệ
sĩ bị bắt giam mà không xét xử.
Những năm sau, nhóm đã tổ chức nhiều buổi nói chuyện
với những nhà hoạt động nhân quyền như Ginetta Sagan, Joan
Baez cùng nhiều người mới thoát khỏi Việt Nam như bác sĩ
Trần Xuân Ninh, nhà văn Nguyễn Hữu Hiệu, cựu thủ lãnh sinh
viên Đoàn Văn Toại là những tù nhân lương tâm mới được
tự do.
Qua sinh hoạt với nhóm, tôi hiểu được thứ vũ khí mà Ân
xá Quốc tế dùng để thăng tiến quyền làm người là kiến
nghị, thư thỉnh cầu gửi đến những nhà lãnh đạo quốc
gia để bênh vực cho những người mà tiếng nói hay quyền
làm người căn bản của họ đã bị tước đoạt. Tôi đã
nhiều lần gửi kiến nghị, đôi khi tự mình viết tay, đánh
máy, nhiều lần dùng những mẫu thư in sẵn của tổ chức
để yêu cầu trả tự do hay xét xử theo đúng luật pháp và
tinh thần công ước quốc tế cho những người chỉ vì lên
tiếng ôn hoà hay vì có chính kiến khác biệt với nhà cầm
quyền mà bị giam tù.
Tôi đã có thể làm thế vì đang sống trong một đất nước
tự do dân chủ.
Góp tiếng nói với nhiều người trên thế giới, tôi gửi
thư yêu cầu nhà nước Việt Nam trả tự do cho tù nhân cải
tạo học tập, cho những trí thức, văn nghệ sĩ; thỉnh
nguyện nhà nước Liên bang Sô Viết cho kỹ sư Natan Anatoly
Sharansky được quyền tự do di dân, cho nhà bác học Andrei
Sakharov không phải sống lưu đầy; cho sự tự do của những
nhà tranh đấu cho nền độc lập Tibet; cho biết số phận
của những người bị chính quyền bắt đi biệt tích ở
Argentina, El Salvador.
Trong nhiều bài viết về nhân quyền Việt Nam, tôi thường
nhắc đến những tù nhân lương tâm như Chân Tín, Trần Tử
Thanh, Trần Vọng Quốc, Nguyễn Chí Thiện, Doãn Quốc Sĩ,
Nguyễn Đan Quế, Mai Văn An, Dương Thu Hương, Thích Huyền
Quang, Thích Quảng Độ, Đoàn Viết Hoạt. Nhiều người
được trả tự do nhờ những vận động của tổ chức Ân
xá Quốc tế và lãnh đạo thế giới. Có người đến Hoa Kỳ
và tôi đã gặp như bác sĩ Trần Xuân Ninh, các nhà văn Đỗ
Tiến Đức, Nguyễn Hữu Hiệu, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện,
thẩm phán Mai Văn An, sinh viên Đoàn Văn Toại, giáo sư Đoàn
Viết Hoạt. Qua họ, tôi hiểu rằng chỉ một kiến nghị đơn
sơ, một việc làm bé nhỏ của những người quan tâm đến
nhân quyền trên thế giới, nếu chưa giúp họ được tự do
ngay thì cũng đã giúp cho đời sống tù ngục được dễ thở
hơn và nâng cao niềm hy vọng vào một ngày mai được tự do.
Một thỉnh nguyện thư như một ngọn nến đem lại chút hơi
ấm và ánh sáng hy vọng trong ngục tối.
Một nhà thơ miền Nam ở thế kỷ trước đã viết:
Tôi vẫn sống
Tôi vẫn ăn
Và tôi vẫn thở
Nhưng đến bao giờ
Tôi mới được nói thẳng
Những điều tôi ước mơ, tôi ước mơ … [1]
Hơn nửa thế kỷ qua nhiều người Việt đã phải chịu tù
đầy vì nói lên những suy tư, ước vọng.
Ngày nay ở Việt Nam vẫn còn những người vì chỉ muốn nói
lên khát vọng tự do dân chủ mà đang bị chính quyền bao
vây, giam tù như Nguyễn Vũ Bình, Chân Tín, Lê Nguyên Sang, Đỗ
Nam Hải, Thích Quảng Độ, Nguyễn Đan Quế, Phạm Hồng Sơn,
Trương Quốc Huy, Trần Khải Thanh Thuỷ, Nguyễn Văn Đài,
Bạch Ngọc Dương, Huỳnh Nguyên Đạo, Lê Thị Công Nhân.
Họ sẽ không bị thế giới bỏ quên.
--------------------------------------------------
[1] thơ Nhất Hạnh, Phạm Duy phổ nhạc “Tôi Ước Mơ”,
1965.
Nguồn: http://www.x-cafevn.org
|