Gửi vào ngày Thứ Ba, 21 Tháng 7, 2009.
TẠI SAO CỘNG SẢN GIẾT PHẠM QUỲNH?
Trần Gia Phụng
TẠI SAO CỘNG SẢN GIẾT PHẠM QUỲNH?, trong khi cộng sản không giết Trần
Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các Trần Trọng Kim, là những người
đang còn hoạt động? Câu hỏi nầy cần tách ra làm hai phần để dễ tìm hiểu:
Thứ nhất: Từ khi đến Trung Hoa hoạt động năm 1924, điệp viên của Đê Tam
Quốc tế Cộng sản, lúc đó có tên Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, đã chủ trương
“giết tiềm lực”. Giết tiềm lực là tiêu diệt tất cả những cá nhân có khả
năng tiềm tàng mà không chịu theo chủ nghĩa cộng sản hay đảng Cộng Sản,
có thể sẽ có hại cho đảng Cộng sản trong tương lai. Những người nầy về
sau có thể sẽ hoạt động chính trị và có thể sẽ gây trở ngại, gây nguy
hiểm cho sự phát triển của cộng sản.
Nạn
nhân danh tiếng đầu tiên của chủ trương giết tiềm lực của Hồ Chí Minh
là Phan Bội Châu (1867-1940). Phan Bội Châu bị Lý Thụy bán tin cho
Pháp, để Pháp bắt Phan Bội Châu năm 1925 tại nhà ga Thượng Hải, nhằm
đoạt lấy tổ chức của Phan Bội Châu. (Tưởng
Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, bản
dịch của Nguyễn Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California:
Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.)
Từ đó, Hồ Chí Minh và phe đảng thi hành chủ trương giết tiềm lực, ngầm
thủ tiêu rất nhiều thanh niên sinh viên hoạt động chính trị, và nhất là
năm 1945, khi nắm được quyền lực, Việt Minh (VM), mặt trận ngoại vi của
đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), đã giết hầu hết những nhân tài không
theo VM.
Tại Huế, VM tìm tất cả các cách nhắm cô lập vua Bảo Đại. Cách tốt nhất
là cách ly nhà vua với những người có khả năng và uy tín thân cận bên
cạnh nhà vua, trong đó quan trọng hơn cả là Phạm Quỳnh và Ngô Đình
Khôi. Do đó, VM ra lệnh bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi cùng con của
ông Khôi là Ngô Đình Huân ngày 23-8-1945. Đồng thời VM sắp đặt những
người của VM như Tạ Quang Bửu, Phạm Khắc Hòe vây quanh rỉ tai nhà vua,
phóng đại về kháng chiến, về Việt Minh. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tr. 184.)
Theo David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power, sau khi
Phạm Quỳnh và hai cha con Ngô Đình Khôi bị bắt, người Nhật can thiệp
một cách yếu ớt không hiệu quả. Ngày 28-8, sáu người Pháp nhảy dù xuống
một địa điểm cách kinh thành Huế khoảng 20 cây số nhắm mục đích bắt
liên lạc với vua Bảo Đại và các cựu quan Nam triều. Lúc đầu, VM địa
phương tưởng những người Pháp nầy là người của phe Đồng Minh, cho họ
trú tạm tại một ngôi nhà thờ, nhưng khi biết rằng đây là những người
Pháp có ý định tìm cách liên lạc với các quan chức Nam triều cũ, VM
liền giết bốn người, và cầm tù hai người đến tháng 6-1946. (David
G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền
lực] University of California Press, tt. 452-453.)
Trong khi cô đơn, lại bị Phạm Khắc Hòe xúi giục và hù dọa, vua Bảo Đại
tuyên chiếu thoái vị ngày 25-8-1945, và làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn
ngày 30-8-1945, với sự hiện diện của đại diện Việt Minh là Trần Huy
Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.
Theo hồi ký của Trần Huy Liệu, sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp nhảy
dù xuống Huế, liền hỏi ngay đến Bảo Đại, Phạm Quỳnh và những người cộng
tác với Pháp trước đó. Việt Minh bắt được toán người Pháp nầy và “xử lý
thích đáng” Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh. (Nguyên văn lời của Trần Huy
Liệu.) Theo lối chơi chữ của Trần Huy Liệu, “xử lý thích đáng” có nghĩa
là thủ tiêu hai ông Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh.
Nhiều người cho rằng việc người Pháp muốn kiếm cách liên lạc với cựu
hoàng Bảo Đại và Phạm Quỳnh (vì lý do gì không được rõ) vô tình đã làm
cho VM lo ngại, sợ rằng một khi người Pháp trở lui, Pháp sẽ nhờ Phạm
Quỳnh và những người đã từng làm việc với Pháp như Ngô Đình Khôi giúp
Pháp lật ngược thế cờ, đưa cựu hoàng trở lại cầm quyền.
Do đó VM vội vàng “mời” cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945, ra Hà
Nội làm cố vấn chính phủ, để cách ly cựu hoàng với cố đô, chiếc nôi của
nhà Nguyễn, đồng thời cách ly cựu hoàng với những cận thần cũ. Vì vậy
VM giết ngay các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi ngày 6-9 để trừ hậu
hoạn. Trong khi đó, nếu người Pháp trở lui Huế, người Pháp cũng không
hợp tác với Trần Trọng Kim, vì ông Kim và nội các của ông bị gán cho là
thân Nhật.
Thứ hai: Khi cướp chính quyền, VM đã chủ ý giết một số người trong đó có Phạm Quỳnh. Việt Minh chủ ý giết Phạm Quỳnh vì :
1) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân chủ lập hiến tại nước ta, và cho rằng cộng sản là “nạn dịch” gây bất ổn xã hội. (Phạm
Quỳnh, “Ce que sera l’Annam dans cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao
năm mươi năm sau?], Essais franco-annamites (1929-1932), Huế: Nxb. Bùi
Huy Tín, 1937, tr. 500.) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quốc học trong khi Việt Minh muốn phổ biến chủ nghĩa cộng sản.
2) Ở trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu cho giới trí thức làm văn hóa,
theo chủ nghĩa dân tộc, lập trường quốc gia, bất bạo động, dấn thân
hoạt động chính trị. Việt Minh giết Phạm Quỳnh để đe dọa, uy hiếp và
khủng bố tinh thần giới trí thức hoạt động văn hóa trên toàn quốc. Đây
là lối mà người xưa gọi là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ” (giết một người, mười ngàn người sợ).
3) Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là người được Pháp ủng hộ và rất có
uy tín trên chính trường Pháp. Với đường lối ôn hòa, ông còn có thể
được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy giờ do Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân
Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp nhận hơn là đường lối cực đoan theo
Liên Xô của Hồ Chí Minh.
4) Hồ Chí Minh muốn chụp lấy ngay thời cơ tạo ra do khoảng trống chính
trị sau tối hậu thư Potsdam vào cuối tháng 7-1945, nên chủ trương tiêu
diệt tất cả những người nào có khả năng tranh quyền với Hồ Chí Minh, để
cho ở trong cũng như ngoài nước thấy rằng chỉ có một mình Hồ Chí Minh
mới xứng đáng lãnh đạo đất nước. Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ
Lại, đứng đầu triều đình Huế. Đặc biệt những điều ông viết về tương lai
thế giới mà ông đưa ra từ 1930 trong bài “Ce que sera l Annam dans
cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?] đều đã diễn ra
đúng theo ông tiên liệu, như mối đe dọa của Nhật Bản, nạn dịch cộng
sản, xung đột Thái Bình Dương, đại hỏa hoạn ở châu Âu [thế chiến 2].
Nhờ thế mà uy tín Phạm Quỳnh lên rất cao.
Phạm Quỳnh có uy tín và tư thế lớn đối với dư luận trong và ngoài nước,
là một trong những người có thể trở thành đối thủ đáng ngại của Hồ Chí
Minh, nên Hồ Chí Minh quyết tiêu diệt Phạm Quỳnh để tránh trở ngại về
sau.
5) Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi cuốn quần chúng, Hồ Chí Minh và Mặt
trận Việt Minh tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là nhà yêu nước, chứ không
phải là đảng viên cộng sản, và Hồ Chí Minh ra đi để tìm đường cứu nước,
đồng thời Hồ Chí Minh tự giấu thật kín chuyện xin vào học trường Thuộc Địa Paris mà bị loại. Một chuyện nữa cũng thuộc loại “thâm cung bí sử” của Hồ Chí Minh là việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris vào đầu năm 1922.
(Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale”
[Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa], tạp chí Revue Française
d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française
d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105.) Hội Tam Điểm là một hội có chủ trương chính trị đối lập với đảng Cộng Sản và là kẻ thù của đảng Cộng Sản.
Cũng trong năm 1922, theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến
Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922
về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt
bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài
nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp. Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi
nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”, và không nêu
tên những người ông đã gặp trong nhật ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để
bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn
Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch
Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật
16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.]
Như thế, Phạm Quỳnh là một trong những người biết rõ tung tích Hồ Chí
Minh ở Paris, biết rõ Hồ Chí Minh đã gia nhập hội Tam Điểm Pháp, và đặc
biệt Phạm Quỳnh còn sống cho đến 1945. (Những người khác như Phan Châu
Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh đều đã từ trần.) Phạm Quỳnh là
một nho sĩ chính trực nên ông không tiết lộ cho vua Bảo Đại biết điều
nầy, do đó nhà vua mới bị Phạm Khắc Hòe dẫn dụ về nhân vật Hồ Chí Minh. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tt. 184-185.) Phải chăng vì là người đã lỡ “biết quá nhiều” về Hồ Chí Minh mà Phạm Quỳnh bị Hồ Chí Minh ám hại?
Do những lẽ trên, nếu không có những người Pháp nhảy dù xuống Huế như
tác giả David G. Marr viết hay Trần Huy Liệu kể, cộng sản cũng vẫn giết
Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều là hai nhà văn hóa, và
chính trị nổi tiếng trên toàn quốc. Trần Trọng Kim viết khảo cứu có
tính cách hoàn toàn chuyên môn, chứ không có chủ trương chính trị lâu
dài; nội các Trần Trọng Kim gồm những chuyên viên cần thiết cho việc
xây dựng cơ sở căn bản trong giai đoạn chuyển tiếp từ chính quyền Pháp
qua chính quyền Việt. Trần Trọng Kim ít biết về những hoạt động của Hồ
Chí Minh lúc còn ở Paris.
Ngược lại, Phạm Quỳnh trước tác với một ý hướng chính trị rõ ràng: xây
dựng một nền văn hóa dân tộc, bảo tồn quốc tuý, nâng cao trình độ văn
hóa của dân chúng bằng cách phổ biến văn hóa Âu tây, dịch thuật những
tư tưởng dân quyền của Montesquieu, Voltaire, Rousseau. Phạm Quỳnh tham
gia triều đình Huế cũng nhắm đến một chủ đích rõ ràng: tranh đấu ôn
hòa, nhưng cương quyết yêu cầu Pháp trả lại chủ quyền cho triều đình,
và xây dựng một hiến pháp làm luật lệ căn bản của quốc gia.
Ảnh hưởng văn hóa và chính trị của Phạm Quỳnh khá rộng rãi trên các
tầng lớp quần chúng, nhất là giới trí thức trung lưu, từ lớp trí thức
Nho học đến cả lớp trí thức và thanh niên tân học. Tạp chí Nam Phong
được các lớp người ưu tú ở các địa phương lúc bấy giờ trên toàn quốc
xem như loại sách báo giáo khoa chỉ đường. Đó là điều mà cộng sản chẳng
những không thể chấp nhận và cũng không thể dung thứ, vì cộng sản muốn
nắm độc quyền lãnh đạo chính trị, độc quyền yêu nước, độc quyền chân lý.
Xin hãy chú ý thêm ngày Phạm Quỳnh bị sát hại. Phạm Quỳnh bị bắt ngày
23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bị nhóm VM địa
phương Huế giết liền khi họ nổi dậy. Vua Bảo Đại thoái vị ngày
30-8-1945 với sự chứng kiến của đại diện chính phủ Việt Minh từ Hà Nội
đến là Trần Huy Liệu (bộ trưởng bộ Tuyên truyền), Nguyễn Lương Bằng và
Cù Huy Cận (bộ trưởng không bộ nào tức quốc vụ khanh). Phạm Quỳnh bị
giam giữ một thời gian, rồi mới bị giết ngày 6-9-1945, nghĩa là lúc đó
đã có mặt của đại diện trung ương của VM và của đảng CSĐD.
Khi đã có sự hiện diện của đại diện trung ương, các cán bộ VM địa
phương chắc chắn không dám tự tiện ra tay, mà chắc chắn phải có ý kiến
của trung ương. Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được
việc nầy. Như vậy phải chăng chính nhóm Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà
Nội vào Huế để giết Phạm Quỳnh? Và lệnh đó từ đâu, nếu không phải là từ
Hồ Chí Minh?
Sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị
Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Dưới đây là lời kể của
bà Thức:”…Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi ra đi!…Sau đó, chị tôi [tên Giá]
và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ]
cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm
Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về…Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội
và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký viết tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu gia đình.)
Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945. Hồ Chí Minh cướp chính quyền ngày
2-9-1945, ra lệnh “mời” Bảo Đại ra Hà Nội, và Bảo Đại rời Huế ngày
4-9-1945. Như thế có nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Việt Nam, đã cướp được
chính quyền, đã nghĩ đến cựu triều đình Huế, đến việc đưa Bảo Đại ra Hà
Nội, vậy chắc chắn Hồ Chí Minh không thể quên hay không biết chuyện
Phạm Quỳnh. Lối lý luận của Hồ Chí Minh là cách chối tội thông thường
cổ điển của VM: “Mất mùa là tại thiên tai,/ Được mùa là tại thiên tài
đảng ta.)
Giết xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc hủy diệt luôn hình ảnh sáng
chói nhà văn hóa Phạm Quỳnh, tức giết Phạm Quỳnh lần thứ hai. Việc nầy
thì không thể nói là Hồ Chí Minh không biết gì cả. Đảng Cộng Sản quy
chụp cho Phạm Quỳnh tội “phản quốc, làm tay sai cho Pháp”. Gần 40 năm
sau, trong Từ điển văn học, gồm 2 tập, mỗi tập trên 600 trang, gồm
nhiều người viết, do Uỷ ban Khoa học Xã hội xuất bản tại Hà Nội năm
1984, vẫn không có mục “Phạm Quỳnh”. Khi viết về các nhóm văn hóa, sách
nầy không thể loại nhóm Nam Phong vì nhóm Nam Phong có khá nhiều tác
giả nổi tiếng.
Nói đến nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả Nguyễn Phương
Chi, trong ban biên tập từ điển, vẫn còn gọi Phạm Quỳnh là “bồi bút,
phản động”. Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt
Nam, do nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn
Bá Thế biên tập, mục “Phạm Quỳnh”, trang 758-759, hai tác giả nầy viết:
“Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió vì gắn bó
mật thiết với các quan thầy thực dân…Ngày 23-8-1945, Phạm bị các lực
lượng yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử bắn ở l.[làng] Hiền Sĩ,
t.[tỉnh] Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi.”
Các tác giả cộng sản thường đưa ra chiêu bài yêu nước và dân tộc để quy
chụp những người không theo khuynh hướng của cộng sản là phản động,
phản quốc, trong khi chính vì Hồ Chí Minh khăng khăng đi theo cộng sản
Liên Xô mà Việt Nam không được các nước Đồng Minh thừa nhận sau năm
1945. Cũng chính vì đảng Cộng Sản chủ trương ý thức hệ cộng sản mà gây
ra mâu thuẫn quốc cộng, phá hoại tình đoàn kết dân tộc, là một trong
những nguyên nhân chính đưa đến chiến tranh Việt Nam từ 1946 đến 1975,
và hậu quả còn kéo dài mãi cho đến ngày nay.
Sau năm 1954, rồi 1975, chính đảng Cộng sản Việt Nam đã nhập cảng và áp
dụng một cách máy móc chính sách văn hóa Mác, Mao và kinh tế chỉ huy
rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng, đã làm cho Bắc Việt rồi cả Việt
Nam suy kiệt về mọi mặt cho đến ngày nay mà chưa tìm ra lối thoát.
Nếu nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp để mưu cầu chủ quyền cho Việt
Nam, bảo vệ quyền lợi của quốc gia là làm tay sai cho ngoại bang, còn
Hồ Chí Minh và đảng cộng sản theo Nga Hoa, bán đứng quyền lợi đất nước,
thì không phải là tay sai ngoại bang? Nếu nói rằng Phạm Quỳnh hợp tác
công khai với Pháp, viết bài trình thuật rõ ràng các hoạt động của ông
là phản quốc, trong khi Hồ Chí Minh làm gián điệp cho Đệ tam Quốc tế
Cộng sản, cầu viện Trung Quốc và Liên Xô là không phản quốc?
Nếu nói rằng Phạm Quỳnh viết bài quảng bá học thuật Âu tây, đề cao tư
tưởng dân quyền của Voltaire, Montesquieu, Rousseau là không có tinh
thần dân tộc, còn cộng sản phổ biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất là
chủ nghĩa Stalin thì gọi là gì? Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine
là bồi bút, còn Tố Hữu làm thơ gọi Stalin là ông nội, “thương cha
thương mẹ thương chồng / thương mình thương một thương ông thương
mười”, thì không bồi bút?
Nói cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người học trò bình thường của
Voltaire, Montesquieu hoặc Rousseau thì cũng đáng mừng cho dân tộc Việt
Nam, vì tư tưởng của các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi đường cho
nhân dân toàn thế giới xây dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp trị.
Trong khi đó Hồ Chí Minh là “một người học trò trung thành của Các Mác và V. I. Lê-nin” (Ban
Nghiên cứu Lịch sử Đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự
nghiệp, in lần thứ tư, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr. 160.),
và nhất là người học trò xuất sắc của Stalin, thì thực tế lịch sử đã
chứng minh rằng đó là hiểm họa độc tài đen tối khốc liệt nhất từ trước
đến nay trong lịch sử Việt Nam.
Dầu sao, việc tuyên truyền của cộng sản một thời gây nhiễu xạ hình ảnh
của Phạm Quỳnh và ảnh hưởng không ít đến dư luận dân chúng, làm nhiều
người, kể cả vài kẻ tự mệnh danh là trí thức tiến bộ, hiểu sai về Phạm
Quỳnh, và hiểu sai luôn về một số nhân vật chính trị theo khuynh hướng
quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh đã từng nói: “Về phần tôi, tôi đã chọn con
đường của tôi. Tôi là một người ở buổi giao thời và tôi sẽ chẳng bao
giờ được cảm thông…”. (Thư
ngày 30-12-1933 của Phạm Quỳnh gời Louis Marty, Hành trình nhật ký,
Paris: Nxb. Ý Việt, 1997, phần “Dẫn nhập”, không đề trang.)
Ngày nay, sau những biến động đảo điên của thời cuộc, mọi người nên
công tâm tìm hiểu Phạm Quỳnh và nhìn lại sự nghiệp của ông. Trước ngã
ba đường vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học, Tây học, và tân học, Phạm
Quỳnh chọn con đường tân học, cải tiến và hoàn chỉnh văn học Quốc ngữ
để làm phương tiện xây dựng quốc học, vừa bảo vệ quốc hồn quốc túy, vừa
bồi đắp thêm bằng cách du nhập những tinh hoa văn hóa nước ngoài.
Chủ trương hòa nhập văn hóa (acculturation) của Phạm Quỳnh xét cho cùng
rất quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu chỉ mãi mê tranh đấu
chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa dân tộc dựa trên
quốc hồn, quốc học và quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì trệ trong sự
nô lệ tinh thần. Những đóng góp của ông trong việc phát triển nền văn
chương Quốc ngữ thật lớn lao. Những vấn đề văn chương, triết lý tổng
hợp đông tây ông đã viết, những ý kiến do ông đưa ra trong các bài báo,
kể cả những ý kiến ông tranh luận về truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn còn
có giá trị. Giấc mơ của Phạm Quỳnh về quốc học, quốc hồn lại càng cần
được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh thần cho mọi người Việt Nam ngày
nay ở trong cũng như ở ngoài nước. Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn của
Việt Nam thời hiện đại.
Về chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu luận bằng tiếng Việt cũng như
bằng tiếng Pháp để tranh đấu thực hiện lý tưởng chính trị của ông.
Nhiều người thường đồng nghĩa nền quân chủ với phong kiến hoặc thực
dân, nên cho rằng quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh là thủ
cựu. Cần phải chú ý là Phạm Quỳnh chủ trương bất bạo động. Ông chọn thể
chế quân chủ lập hiến với hy vọng thúc đẩy Việt Nam chuyển biến một
cách ôn hòa trong trật tự.
Nhìn ra nước ngoài, hiện nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì nền quân
chủ lập hiến, nhưng vẫn là những nước hết sức dân chủ như Anh Quốc,
Nhật Bản, Thuỵ Điển, Bỉ …Ở trong nước, xét trên chiều dài của lịch sử,
từ ngày Pháp đặt nền đô hộ năm 1884 đến năm 1945, tuy các vua nhà
Nguyễn bị người Pháp khống chế, nhưng vua vẫn là biểu tượng cao cả của
đất nước, nên các cuộc nổi dậy kháng Pháp từ Bắc vào Nam đều quy hướng
về một mối, đó là triều đình ở kinh đô Huế. Trái lại từ năm 1945 trở
đi, khi VM cộng sản cướp chính quyền, người Việt Nam bị chia rẽ trầm
trọng thành nhiều phe nhóm khác nhau, theo những quan điểm khác nhau.
Do đó, Phạm Quỳnh có phần hữu lý khi ông chủ trương cải cách ôn hòa, và
chọn quân chủ lập hiến theo đại nghị chế thay thế cho nền quân chủ
chuyên chế.
Ngày nay, cục diện chính trị Việt Nam đã thay đổi hẳn, quan niệm quân
chủ lập hiến của Phạm Quỳnh không còn phù hợp, nhưng không thể vì thế
mà phủ nhận tinh thần ái quốc, lòng can đảm và sự tận tình của ông trên
con đường phụng sự quê hương. Phạm Quỳnh đã âm thầm tranh đấu bất bạo
động để đòi hỏi chủ quyền cho đất nước. Ông đã hết lòng hoạt động vì
nước và đã hy sinh vì lý tưởng của mình. Đó là điều thật đáng trân quý
nơi Phạm Quỳnh, nhà trí thức dấn thân hoạt động chính trị.
Một điều đáng ghi nhận cuối cùng trong cách thức hành xử của Phạm
Quỳnh. Ông theo đuổi một lý tưởng chính trị trường kỳ và bất bạo động,
nên ông luôn luôn cố gắng làm những gì có lợi cho đất nước và đồng bào,
đồng thời tránh không làm bất cứ việc gì có hại cho quốc gia dân tộc.
Phạm Quỳnh sống lương thiện, không tham ô nhũng lạm, và cũng không hề
gây tội ác giết hại đồng bào. Thái độ nầy là điều mà rất ít nhà hoạt
động chính trị của mọi khuynh hướng thực hiện được, và là một điểm son
sáng chói phân biệt Phạm Quỳnh với những người ra hợp tác với Pháp để
trục lợi cầu vinh.
Đây là điều cần phải được tách bạch. Trong việc hợp tác với Pháp, có
hai hạng người: hạng thứ nhất là những kẻ hợp tác để mưu cầu danh lợi
riêng tư, lợi dụng quyền thế, hống hách bóc lột đồng bào; hạng thứ hai
ra tham chính, làm việc với Pháp, không dựa vào quyền thế để hiếp đáp
dân chúng, mà dùng quyền thế để cứu giúp đồng bào, và vẫn giữ được khí
tiết riêng của mình như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Trương Vĩnh Ký, và
biết bao nhiêu người vô danh khác…
Phải tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ ràng như thế mới hiểu được tâm
trạng cùng sự can đảm của những nhà trí thức, trong hoàn cảnh éo le của
đất nước, dấn thân hoạt động chính trị, phụng sự dân tộc, nhất thời đã
bị hiểu lầm sau những cơn lốc tranh chấp chính trị kéo dài trên quê
hương yêu dấu, trong đó Phạm Quỳnh là trường hợp điển hình nhất.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)
Ðọc thêm: Nhà văn hoá Phạm Quỳnh (Nguyễn Phúc Vĩnh Ba)
Sửa sai về học giả Phạm Quỳnh (Quốc Phương)
Ảo tưởng Phạm Quỳnh (Nguyễn Thị Thu Nguyên) Những vấn đề then chốt nhận định chính trị trong thời điểm Phạm Quỳnh (Đỗ Quý Sáng)
Phạm Quỳnh (Trần Văn Chánh - Phạm Tôn)
|