Mục sư Nguyễn Hồng Quang
Ngày
18/06/2009, sau khi thực hiện xong lệnh bắt khẩn cấp Luật sư Lê Công Định một
tuần thì công an Việt Nam làm một điều ít có tiền lệ: bắt người giam xong mới xem
xét để có quyết định khởi tố bị can, khởi tố vụ án “Tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa” đồng thời kèm với lời hù dọa một tội danh nặng ký hơn: có
dấu hiệu “âm mưu lật đổ chính quyền?”.Dù Công an là cơ quan khởi tố, Viện kiểm sát
là cơ quan truy tố, Tòa án là cơ quan xét xử cả ba cơ quan nầy chưa hoàn tất
các bước của quá trình tố tụng trong vụ án. Do đó Ls Lê Công Định chưa một phút nào trở thành
bị cáo trong vụ án cả!
Việc
cơ quan công an làm việc quá nhanh để có lời nhận tội và xin khoan hồng của Ls
Định, trước khi có kết luận điều tra. Điều nầy chứng minh sự ứng phó tổng lực
đối với dư luận rộ lên khắp nơi, đặc biệt tại quốc nội thu hút sự quan tâm của
mọi tầng lớp nhân dân, nó thu hút cao nhất giới trí thức, luật sư từ trước đến
nay. Vì lần đầu tiên báo chí nhà nước đồng loạt đăng tin, nâng tầm quan trọng
của vụ án khiến sự tò mò trổi dậy của dân chúng bình dân, họ tham gia bàn luận
sôi nổi về vụ án của một luật sư tài danh. Các thắc mắc sau đây được dư luận
nêu ra với nhau:
- Tại sao chưa có cáo trạng buộc tội chính thức và hợp pháp tại
phiên tòa mà lại mau chóng nhận tội?
- Lời xin khoan hồng là lời nói cuối cùng dành cho bị cáo đã nhận
tội trước hội đồng xét xử. Có điều gì xảy ra mà Luật sư Định nói quá sớm khi tòa
chưa xử mình có tội hay không?
- Tại sao một luật sư nổi tiếng lại thua nhiều người bị “giam
cứu” nhiều năm bị “chèm bẹp, lên bờ xuống ruộng” mà cương quyết
không nhận tội đến nổi cơ quan điều tra
không thể kết thúc điều tra, viện kiểm sát không thể truy tố được?
- Có phải Ls Định chưa chuẩn bị để trả giá cho chính kiến của mình?
- Khi gặp tôi một vị mục sư tại
Sài Gòn liền nói như chê trách Ls Định trước mặt tôi về việc “nhận tội” quá sớm
của Ls Lê Công Định. Mọi thất vọng
và ngờ vực khiến một số người hoang
mang, tiếc nuối là có thật.
Chúng tôi rất thận trọng bởi kinh nghiệm một người tù chính trị khi đối
diện với tình huống xấu nhất thường nghĩ về sự cần thiết phải tồn tại vì tương
lai, vì sứ mạng của chính mình. Tâm lý của một người tù đang đối diện với cuộc
chiến ác liệt mà không hề hình dung trước, mọi vũ khí đều không xử dụng được
ngoài vũ khí “khôn ngoan”, nếu mất nó không những mất mạng mà lý tưởng của mình
không thể thực hiện được.
Khi đưa ra quan điểm của mình, tôi luôn nghĩ nó giới hạn trong một số tình huống cụ thể cho
một số cá nhân nào đó mà thôi.
Trường hợp Luật sư Lê Công Định, tôi đánh
giá cao trăn trở của Anh trong những bài
viết đầy ý thức, trách nhiệm lẫn nhiệt huyết cho lợi ích sống còn của nước nhà, Luật Sư còn là người bào
chữa cho Luật sư Đài, Ls Lê Thị Công Nhân, qua bài bào chữa đã dành phần thắng
về mặt tình cảm cũng như dư luận trên thế giới cho hai luật sư. Quan điểm bào
chữa của Ls Định cũng là cơ sở pháp lý cho
các cơ quan ngoại giao lên tiếng bên vực cho hai luật sư trong tù.
Tôi biết ơn Luật sư Đài, Luật
sư Công Nhân của Văn phòng Luật sư Thiên Ân tại Hà Nội, họ đã chuẩn bị tốt sự bào
chữa cho tôi trong phiên tòa phúc thẩm năm 2005. Tôi cũng không thể không biết ơn Luật sư Định, đã giúp
cho ân nhân của tôi có tiếng nói chính đáng trước công luận khi vụ án xảy ra.
Thật con tạo xoay vần! Ðến lượt tôi lại nhìn
người ân nhân của ân nhân tôi rơi vào thế “thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời
thế, thế thời phải thế!”.
Tôi muốn nói lên một cách
nhìn “tích cực” về những diễn biến khác thường của vụ án nầy.
Là mục sư, tôi hiểu rõ trong
thần học giải cứu. Đức Chúa Jesus Christ là “luật sư biện hộ” cho tội
nhân. Dù con người phạm tội đáng bị bỏ đi nhưng trước tòa án của Đấng tối cao,
Chúa Jesus Christ cũng làm tròn sứ mạng biện hộ cho họ để thoát khỏi hình phạt
tận cùng là sự chết đời đời. Để thỏa mãn đòi hỏi công nghĩa, Ngài phải chịu hy
sinh trên thập tự giá trả nợ thay cho họ
để tội nhân trở thành thánh nhân khi lương tâm họ hướng về sự sáng. (IGiăng
2:1-2. International Bible Society1994. Bản diễn ý)
Đức hy sinh của Đức Jesus Christ cho thế nhân
yếu đuối được truyền rao cho thế gian hai ngàn năm nay. Đây chính là nội lực
của ba tôn giáo lớn: Công Giáo, Chính Thống Giáo và Tin Lành.
Kinh thánh là động lực và
nguyên tắc sống cho người có đức tin, họ sẽ vận dụng để tiến bước trên lộ trình
hoàn tất sứ mạng sống trên đất cách khôn ngoan. Giữa cái sống và cái chết, giữa
ngục tù xiềng xích phải sống cho tự do, giữa vô vọng cần sống cho hy vọng, đó
là điều mà người trong lao lý xưa nay từng suy nghĩ và hành động khi sa vào tay
đối phương. Đó là phản ứng tự nhiên của bao con người sống có trách nhiệm khi
cận kề cái chết vì đeo đuổi mục đích cuộc sống.
Trường hợp của vị anh hùng
Davit trong Kinh Thánh (I.Samuel 18-22).
Ông cũng bị nguy hiểm đến
tính mạng bởi tài năng và sự cống hiến to tát của ông cho dân tộc Israel, đến
nỗi danh của ông lấn át uy danh vua Sau lơ, Ông bị vua Sau lơ thay vì quí trọng đãi ngộ lại truy
sát ông bởi lòng đố kỵ cố hữu của kẻ sợ mất quyền lực hơn sợ mất nước. Ai chấp
chứa vị anh hùng Davit cũng bị truy sát, kể cả con trai vua Sau lơ. Để bảo toàn mạng sống ông cũng phải
ngậm ngùi phá hỏng nhân cách của một vị tướng tài oai phong của Israel khi “giả
điên khùng và làm bộ dại khờ”. Ông đã thoát khỏi bàn tay luôn muốn giết
chết Ông của vua Sau lơ và Ba kích mà
ông rất sợ hãi. Sau đó ông đã có cơ hội trở thành hoàng đế lừng danh của dân
tộc Do Thái và Kinh thánh cựu ước đã ghi lại đầy đủ sự khôn ngoan của vị anh
hùng nầy.
Trường hợp người Ga ba ôn trá
hàng với Giô suê khi họ biết không thể
nào thoát khỏi sự tiêu diệt bởi vị tướng nầy, họ bằng lập giao ước chỉ đễ cứu
mạng cho nhiều người Ga ba ôn (Giô xuê:10)
Trá hàng là điều từng xảy ra
trong lịch sử đối đầu của nhân loại, nó có rất lâu trong binh pháp xưa nay, nó
cũng là giải pháp chính thống của ý thức
người chiến binh khi rơi vào tình huống xấu nhất. Cảnh sát cũng có lúc rơi
vào trường hợp phải làm theo yêu cầu của tội phạm .Chính phủ cũng thế để cứu
người hay tài sản có lúc cũng phải nộp tiền chuộc, đáp ứng đòi hỏi của hải tặc,
không tặc hoặc khủng bố.
Ngày nay kể cả những cường
quốc khi đụng đến quyền lợi chiến lược cũng “đầu hàng” hoặc “trá hàng” chiến
thuật, khi chiến đấu với đối phương trên chiến trường chưa phân thắng bại thậm
chí không thể bại! nhưng sự “đầu hàng” hay “trá hàng” được thiết kế núp dưới
những nổ lực bảo đảm danh dự ảo, bất chấp những thảm họa khôn lường cho nhân
loại theo sau cùng sự mất niềm tin tưởng ở đồng minh với nhau từng sát cánh
chiến đấu cho lý tưởng tự do chung của nhân loại.
Trong các cuộc chiến tranh khốc
liệt cận đại sự đầu hàng như một giải pháp tình thế bắt buộc nếu không làm việc
đó thì không còn con đường bảo toàn nào khác, nó trở thành bình thường. Các
chiến binh thực thụ họ đầu hàng, trá hàng đều không từ bỏ trách nhiệm khi có
thể trở lại với nhiệm vụ. Đây cũng là một thực tế không lệ thuộc quan điểm chủ
quan hay khách quan của những nhà phê phán . Sự tàn nhẫn trong cuộc mà người
trực diện nơi lao tù mất điều kiện giải
thích để tìm sự cảm thông cho mình, nhất là một chiến sĩ có nhiều lý do cần
phải duy trì tính mạng một cách chính đáng khi gặp nguy hiểm. Các phi công Mỹ
bị bắn rơi, việc đầu tiên là phải chấp hành lệnh của cô du kích, dù nhỏ bé đến
đâu nhưng nòng súng AK đen ngòm chĩa thẳng vào
thì cũng phải đưa tay đầu hàng thôi, lúc đó không nghĩ mình là gì cả, và
nay phim vẫn còn chiếu cảnh tướng Pháp đưa tay đầu hàng tại Điện Biên Phủ một cách
ngoan ngoãn!
Trường hợp các tù nhân mà họ chưa sẵn sàng để
chấp nhận cái chết tức thì hay cái chết tiệm tiến trong ngục giam, họ cũng phải
nghĩ đến các giải pháp tình thế mà chỉ họ mới chọn lựa và quyết định, ngoài ra
không ai có thể quyết định thay cho họ.
Lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ
1936-1939 tình thế bắt buộc người cộng sản cũng phải hóa thân vào hình thái đấu
tranh mà khác với thời kỳ đấu tranh nẫy lửa 1930-1931. Nhiều người cộng sản lồng
vào hàng ngũ QLVNCH cải trang hoạt động rồi bị tiếng oan, bị tù nhục nhã vì tổ
chức chỉ đạo chết hết không ai thanh minh!
Việc thương thuyết để nhượng
bộ lợi ích cục bộ mang tính chiến thuật trên bàn hội nghị, nó nhiều lúc thành
công trong chiến lược thực hiện mục đích của một quốc gia. Lịch sử nhân loại
chứng minh ngay cả những quốc gia tự do hay độc tài cũng có thể làm như vậy.
Trong trường hợp của nhà văn Phương Nam tức Kỹ
sư Đỗ Nam Hải, gặp một tình huống cũng khá nan giải, anh đã phải ký một văn bản
mà thế triệt buộc công an đạo diễn, nghe tin ai cũng gọi điện tìm hiểu cũng lắm
người phiền trách thất vọng! Tôi cho rằng hành vi đó không có động cơ bên trong
hay ý thức đầu hàng là được rồi. Vì trên quan điểm pháp lý một hành vi phải
thực hiện trong tình huống cấp thiết, ngoài ý muốn của người thực hiện thì chưa
thể cấu thành đầy đủ các yếu tố của sự
phản bội hèn yếu đâu mà lo.
Quả thật Kỹ sư Đỗ Nam Hải
không hề phủi tay trước vận mạng của đất nước, hậu quả của hành vi anh Hải
không hạ gục được lòng yêu nước và lý tưởng Anh.
Trong trường hợp Linh mục
Nguyễn Văn Lý, năm 2003, khi gia đình cha
Lý đem cho tôi xem một bức thư của cha Lý viết trong tù mà quí linh mục có
được, theo các người thân của Cha Lý là chính chữ viết của Cha. Họ nhờ tôi phân
tích để kết luận như thế nào? Tôi xem toàn bộ nhưng giờ thì không còn nhớ đủ,
song đại thể là có nhiều sự hiện thấy về Chúa, và nhiều chổ có quan điểm mới
cảm thông cho chính quyền cộng sản Việt Nam. Lúc đó thật hoang mang cho nhiều
người nhưng có nhiều người chia sẻ quan điểm rằng: “Cha Lý trong tù thì những
gì mà Cha nói hay viết chưa kiểm chứng thì coi như không có giá trị” (theo như một tờ
giấy ngài viết để lại trước khi bị bắt). Sau đó tôi đi tù cuối năm 2005, tôi ra
tù Cha có đến thăm tôi tại Quận 2, và lần thứ 2 gia đình tôi cùng các đồng sự Ms Phương, cô
Hồng Liên về thăm quê của họ tại Huế, có ghé thăm Cha tại Tòa Giám mục Huế,
thật không thể nào thấy một chút gì của con người ủy mỵ mà bức thư trong tù gửi
ra năm xưa. Linh mục Nguyễn Văn Lý trong giai đoạn ra khỏi tù là một người ý
chí mạnh mẽ, quyết đoán và đầy nhiệt thành trong công việc, nhất là việc thúc
đẩy cho các tổ chức, đảng phái chính trị sớm ra đời ngay trong lòng chế độ độc
đảng sung mãn quyền lực tại Việt Nam mà không hề sợ hải! Khó có người nào như
Cha, ai gặp Cha, ngay cả công an không phải ai cũng được chứng kiến hành động
tự do bất khuất của ngài.
Trường hợp Cha Lý những gì ngài viết trong lao tù thì không bảo đảm phản ảnh con người thực của Cha. Mọi
phê phán hay thất vọng về Cha thì thực tế đã chứng minh ngược lại rồi.
Một yếu tố pháp lý giúp suy nghĩ chúng ta
trong trường hợp nầy của bản văn di chúc
về thừa kế; để được coi là hợp pháp thì Bộ Luật Dân Sự có qui định rõ: Người
lập di chúc phải có năng lực về hành vi, phải minh mẫn, sáng suốt, không bị
bệnh, sức khỏe tinh thần ổn định, khi lập có nhân chứng, không bị lừa dối, đe
dọa hay cưỡng ép (điều 647, 652)
Luật sư Lê Công Định mới bị
bắt mấy ngày trong ngục tù, thông thường tâm lý không ổn định, không ai làm việc hiệu quả khi thẩm
cung. Tôi bị bắt giam nhiều lần nhưng lần nào mấy ngày đầu thật mỏi mệt, thể
trạng xuống và sức khỏe tâm thần sút giảm, không thể minh mẫn sáng suốt, nhất
là chấp pháp hù liên tục.Phải nói chấp pháp cộng sản họ có tài biến hóa những
bản cung, họ biến không thành có, biến có thành không! họ rất có lợi thế làm
cung, người bị thẩm vấn bị giam cầm không hề có luật sư hay có sự giám sát của
thân nhân, tất cả trong bế tắc, đấu tranh với họ trong trạng thái yếu ớt xanh
xao, người râu mọc tua tủa, kém ăn, mất ngủ, rất mệt, chưa kể bị biệt giam,
kiên giam, phải bị kẻ “nhãy xô” quấy rầy ra rã, bị tước tất cả mọi quyền, mất
tự do, bị khống chế cô lập toàn bộ. Tình cảnh ấy thì chấp pháp khai thác tối
đa nhược điểm của tù nhân, việc mớm
cung, đảo cung, bức cung chuyện gì xãy ra cũng dễ dàng. Người có cứng rắn trong
việc nầy càng nguy hiểm hơn, có vụ án hàng nhiều năm chưa hề đưa ra xét xử,
thậm chí cả chục năm mòn mõi chết dần mòn trong tù mà không thể kết cung.
Luật tố tụng hình sự đã lâu qui định luật sư
tham gia quá trình tố tụng từ khi khởi tố bị can (có quyền ngồi theo dõi lúc
hỏi cung, có quyền ký nhận bản cung) nhưng Công an Việt Nam cho đến nay vẫn chưa chịu thi hành luật quan trọng
nầy, họ nại đủ lý do để từ chối, người tù hoàn toàn nằm trong tay họ. Do đó
những bản cung nhận tội của Ls Lê Công Định chưa thể kết luận được là nó có phải là ý muốn của
Luật sư Định hay không? Đó có phải đấu pháp mà anh chọn trong tình huống nào đó
mà chỉ có chính anh và công an mới giải thích chính xác?
Khi nào chúng ta có toàn bộ
chứng cứ mới tin được, chứng cứ có thể là chính Ls Định nói trong lúc tự do,
hay ít ra chúng ta phải có đầy đủ băng hình ghi âm quá trình thẩm vấn và nhận
tội, và điều quan trọng là sự giám định y khoa trung thực về tình trạng sức
khỏe, tâm lý của Ls Định.
Những phê phán nóng khi chưa
có cơ sở phân tích đúng, không có tác
dụng giữ vững tinh thần của gia đình cùng chính người đang chiến đấu thầm lặng
trong lao lý kia, ít ra nên hỏi liệu đã công bằng chưa? Tự do ngôn luận phải đạt đến chánh ngôn mới diễn cảm đầy đủ
của hai tiếng tự do thiêng liêng mà máu xương nhân loại đã vun tưới muôn đời. Ai
đó sử dụng tự do ngôn luận để phê phán kết án những tù nhân lương tâm đang đối
mặt sanh tử với đối phương trong trại giam thì không nên. Chấp pháp đầy thâm kế
khống chế tối đa mọi mặt kể cả sinh mạng họ mà họ thì không có phương tiện tối
thiểu tự vệ. Không ai chia sẻ với họ
được trong lúc nầy, kể cả vợ con anh em, đồng sự. Họ đang chiến đấu cô đơn và vất
vả không kém phần ác liệt như ngoài chiến trường, không may họ có thể bị chết
trong tù như cha và chú tôi. Trận chiến của họ diễn ra nơi phòng hỏi cung ngột
ngạt, là trại giam rùng rợn, họ hy sinh cho dân tộc trong các trại tù, nếu có
yếu đuối nào, nếu có sờn lòng hay nao núng nào, mong mọi người hãy bao dung họ
và gia đình đau khổ của họ.
Kinh thánh cũng không ủng hộ
cho sự vội vàng xét đoán nhau, thường con người không nắm đủ sự thật kín dấu
của vấn đề nên xét đoán hay sai lầm, mọi suy đoán dù theo kinh nghiệm sống hay
những dấu hiệu được biểu hiện nhất thời bên ngoài cũng chưa phải đầy đủ cho
chúng ta đánh giá đúng về một con người.
Tôi vẫn tin tưởng những luật
sư trẻ như Luật sư Lê Công Định, Lê thị Công Nhân, Lê Trần Luật, Lê Quốc Hiền,
Lê Chí Quang, Lê Quốc Quân, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Tiến Trung… họ vô cùng quí
giá và cần thiết cho xã hội Việt Nam chúng ta thăng tiến Nếu họ được tư vấn, được kết hợp làm việc
trong một ủy ban quốc gia bài trừ tham nhũng, họ sẽ biết phối hợp quốc tế và
quốc nội dọn dẹp sạch bách lũ giặc nội xâm thâm thù của Tổ quốc thân yêu chúng
ta.
Nhà cầm quyền khôn ngoan nếu
không trọng dụng họ thì cũng đừng hành hạ họ.
Tôi yêu thương họ ngay cả khi
họ bị vấp ngã hay yếu đuối trên con đường nối gót tiền nhân thực hiện ước mơ tự
do dân giàu nước mạnh cho quê hương .
Lịch sử không bỏ rơi họ, thời
gian biện minh cho họ, nhân dân sẽ tôn tặng họ một ngày không xa!
Cầu Chúa cho: “
kẻ tù được tha, kẻ hà hiếp được tự do và rao năm ban ơn lành cho mọi người.” (Luke 4:18,19)
Mục sư Nguyễn Hồng Quang (Cựu tù nhân tương tâm)
Bài nầy chỉ phản ảnh tình cảm và quan điểm của cá nhân (NHQ)
|