Việc Việt Nam đang đàm phán gia nhập vào Hiệp ước Đối
tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), ngoài nhiều vấn đề như tự do
thương mại, sở hữu trí tuệ, hạn chế khu vực doanh nghiệp Nhà
nước… thì vấn đề bảo vệ quyền người lao động
một trong những quyền cơ bản của người dân đang được xem
là nút thắt và gây trở ngại cho Việt Nam trên đường gia nhập
vào tổ chức đa phương này. Để có thêm thông tin về vấn đề này,
Vũ Hoàng thực hiện cuộc trao đổi với T.S Scott Flipse, Phó
giám đốc Nghiên cứu và Chính sách thuộc Uỷ ban Tự do Tôn giáo
Quốc tế Hoa Kỳ.
Dân chủ và nhân quyền trong hiệp ước TPP
Tính cho đến hôm 18/5 vừa qua, TPP đã đi qua 12 vòng đàm phán
chính thức và nhiều đàm phán giữa kỳ tại Dallas, Hoa Kỳ. Ở mỗi vòng
đàm phán, các quốc gia tham dự đều có những thoả thuận trên
nhiều lĩnh vực, để sao cho vừa phù hợp với thực trạng của
quốc gia mình lại vừa tuân thủ mục tiêu chung của Hiệp ước đa
phương này.
TPP là một thoả hiệp thương mại tự do, tính cho đến thời
điểm hiện nay, TPP bao gồm 9 nước hai bên bờ Thái Bình Dương bao
gồm: Australia, New Zealand, Brunei, Singapore, Việt Nam, Malaysia,
Peru, Chile và Hoa Kỳ. Trong Hiệp định này, các lĩnh vực được
tập trung đàm phán là bảo vệ sở hữu trí tuệ, xuất xứ hàng
hoá, chính sách cạnh tranh, bảo vệ quyền lao động, hạn chế khu
vực doanh nghiệp Nhà nước, bảo vệ môi trường, bảo hộ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, mở rộng tiếp cận thị trường cũng như
bảo đảm tự do công nghệ thông tin.
Đối với Việt Nam, ngoài khúc mắc trong chuyện cải tổ khu
vực doanh nghiệp Nhà nước, thì vấn đề bảo vệ quyền của người
lao động, Việt Nam cũng vẫn còn vấp phải những bất đồng.
Bởi theo Nghị định 38 của Chính phủ VN, tụ tập từ năm người
trở lên đều phải xin phép chính quyền địa phương, người lao
động không có quyền tổ chức và thương lượng tập thể. Hiện
tại, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức công đoàn duy
nhất của Chính phủ và công nhân không được phép thành lập công
đoàn độc lập. Theo luật, bất cứ một cuộc đình công nào đều
phải có sự chấp thuận của Tổng liên đoàn lao động, vì thế
các cuộc đình công tại Việt Nam được xem là bất hợp pháp. Mặc
dù, hồi cuối năm ngoái, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng
có đề xuất xây dựng Luật Biểu Tình và giao cho Bộ Công an soạn
thảo, nhưng trong phiên họp tổ diễn ra chiều 28/5 vừa qua của
Quốc hội về Đề án tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của Quốc hội và Dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
năm 2013 thì đã có một số ý kiến không đưa Luật Biểu tình vào chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013.
Dường như đối với Việt Nam thì nhân quyền không phải là ưu
tiên hàng đầu như những mối quan tâm khác, chẳng hạn kinh tế và
an ninh. Nhưng với quan điểm của riêng cá nhân tôi thì, trong
chính sách ngoại giao nhân quyền mới, nhân quyền cần phải được
xem xét khác đi...
TS.Scott Flipse
Tuy rằng không phải là một hiệp ước song phương giữa Hoa Kỳ
và Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ -- một đối tác quan trọng trong TPP tỏ
ra vẫn còn nhiều quan ngại về quyền của người lao động tại
Việt Nam. Trong phần trao đổi sau đây với ông Scott Flipse, quý vị
sẽ được nghe những ý kiến mang tính cách cá nhân của một vị
đã từng có nhiều kinh nghiệm về vấn đề tôn giáo và nhân quyền
tại Việt Nam. Trước hết, ông đưa ra một cái nhìn tổng quan
trong việc đàm phán về nhân quyền:
Dường như đối với Việt Nam thì nhân quyền không phải là ưu
tiên hàng đầu như những mối quan tâm khác, chẳng hạn kinh tế
và an ninh. Nhưng với quan điểm của riêng cá nhân tôi thì, trong
chính sách ngoại giao nhân quyền mới, nhân quyền cần phải được
xem xét khác đi, nghĩa là phải nâng tầm của nhân quyền một
cách phù hợp ngang bằng với các lợi ích khác chẳng hạn như:
kinh tế, an ninh, nông nghiệp, môi trường…Vì vậy, đối với những
người đàm phán trong các lĩnh vực thương mại như TPP hay GSP (Hệ
thống ưu đãi thuế quan phổ quát) thì vấn đề nhân quyền cần
phải được xem xét một cách thích hợp.
Vũ Hoàng: Thưa ông, vậy thì vấn đề quyền của người lao động
hay vai trò của các nghiệp đoàn sẽ có vai trò hay ảnh hưởng
ra sao trong quá trình đàm phán đa phương và song phương với Hoa
Kỳ?
Scott Flipse: Tôi xin được nhắc lại, những gì mà tôi trình
bày tiếp đây là của cá nhân tôi, người muốn thúc đẩy quyền tự
do tại Việt Nam chứ không phải của Uỷ ban Tự do Tôn giáo.
Quyền của công nhân phải được Hoa Kỳ đàm phán như một phần
trong thương mại tự do hay trong các lợi ích kinh tế với Việt
Nam.
Chẳng hạn, như trong GSP đã nêu lên rất rõ ràng, quyền của
người lao động sẽ là tự do lập hội và Hoa Kỳ sẽ không tính
đến những quốc gia nếu họ vi phạm quyền lao động, không có
nghiệp đoàn độc lập, không có quyền tự do lập hội. Những quốc
gia vi phạm điều này sẽ không thể có được GSP với Hoa Kỳ, do
đó, tôi cho rằng, Hoa Kỳ không nên có những bước tiếp theo, hay
thậm chí là không nên tiếp tục đàm phán về GSP, cho đến khi
quyền tự do lập hội được phép thành lập ở các quốc gia đó.
...Chẳng hạn, như trong GSP đã nêu lên rất rõ ràng, quyền của
người lao động sẽ là tự do lập hội và Hoa Kỳ sẽ không tính
đến những quốc gia nếu họ vi phạm quyền lao động, không có
nghiệp đoàn độc lập, không có quyền tự do lập hội. Những quốc
gia vi phạm điều này sẽ không thể có được GSP với Hoa Kỳ,
TS.Scott Flipse
Vũ Hoàng: Những gì mà ông vừa trình bày là dưới góc độ
song phương, thế còn dưới góc độ đa phương như trong TPP thì vấn
đề quyền của người lao động sẽ đóng vai trò ra sao, thưa ông?
Scott Flipse: Tôi hi vọng và nghĩ rằng điều này đang diễn
ra, là các thành viên trong TPP sẽ có một số quyền nhất định
như tự do internet, tự do lập hội, và đây cũng là mục tiêu chung
của TPP mà Việt Nam đang muốn gia nhập vào Hiệp ước này. Tôi
nghĩ các quyền tự do này sẽ là những yêu cầu được mang ra khi
đàm phán với Việt Nam, vì xét cho đến cùng thì tất cả chúng
ta đều muốn có thêm nhiều quyền hạn và tự do hơn tại Việt Nam.
Nhưng câu hỏi là làm sao để có thể đạt được điều đó. Chỉ cho
đến khi Việt Nam hiểu rằng lợi ích về nhân quyền họ có được
là từ những lợi ích của thương mại, kinh tế, an ninh, nông
nghiệp và môi trường… và đàm phán những lợi ích này là dựa
trên nguyên tắc song phương. Tôi nghĩ là trong dài hạn, tại Việt
Nam, người công nhân sẽ được hưởng nhiều quyền lợi hơn chẳng
hạn như tự do ngôn luận, tự do tôn giáo. Tôi cho rằng chính phủ
Việt Nam chưa thấy điều đó, nhưng về lâu về dài, những quyền
tự do đó sẽ diễn ra, mà Việt Nam không thể ngăn cản được.
Vũ Hoàng: Nhân nói về nhân quyền thì tôi có nhớ là bà
Ngoại trưởng Hoa Kỳ có đề cập là với một nền kinh tế thị
trường phát triển thì chắc chắn các vấn đề về nhân quyền
cũng phải phát triển theo cho phù hợp. Vậy trong trường hợp
của Việt Nam, ông đánh giá ra sao về mối quan hệ giữa kinh tế
thị trường và vấn đề nhân quyền?
...Điều quan trọng mà bà Ngoại trưởng Hilary Clinton phát
biểu tại Hawaii cách đây khá lâu rồi là sẽ không có đối tác
chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nếu như vấn đề nhân quyền
tại Việt Nam không được cải thiện...Thượng nghị sĩ McCain từng
nhấn mạnh đến chuyện sẽ không thể có chuyện hợp tác quân sự
với Việt Nam nếu nhân quyền tại đây không có tiến triển.
TS.Scott Flipse
Scott Flipse: Điều quan trọng mà bà Ngoại trưởng Hilary
Clinton phát biểu tại Hawaii cách đây khá lâu rồi là sẽ không
có đối tác chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nếu như vấn đề
nhân quyền tại Việt Nam không được cải thiện. Cũng xin nhắc
lại cả chuyện Thượng nghị sĩ McCain từng nhấn mạnh đến chuyện
sẽ không thể có chuyện hợp tác quân sự với Việt Nam nếu nhân
quyền tại đây không có tiến triển. Chúng ta thấy những lời
tuyên bố này đếu xuất phát từ những nhân vật cao cấp trong
chính quyền hiện tại. Vậy thì giờ đây điều cần làm là làm
sao có thể nối liền những ưu tiên của an ninh với những ưu tiên
của nhân quyền và biến chúng thành hiện thực.
Điều tôi nghĩ quan trọng nhất ở đây là khi nói đến Việt
Nam chúng ta phải phân biệt giữa giới lãnh đạo Việt Nam và
người dân Việt Nam. Trước mắt, chúng ta vẫn phải làm việc và
hợp tác với giới lãnh đạo Việt Nam. Thế nhưng trong dài hạn,
chính sách của Hoa Kỳ sẽ là hợp tác với những ai tạo ra
quyền tự do, mà trong đó có đến hơn 60% dân số của Việt Nam là
người trẻ tuổi dưới 35. Xin được nhắc thêm ở đây, về những
quyền tự do cơ bản, chính sách của Hoa Kỳ cũng sẽ là đứng về
phía những ai muốn thúc đẩy tự do diễn ra một cách ôn hoà.
Vũ Hoàng: Cám ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Thưa quí vị, một lần nữa xin được nhắc lại, TPP là hiệp
ước đa phương của 9 thành viên tham gia đàm phán, trong khi GSP là
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ quát song phương được đàm phán
giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Mặc dù, trên cả 2 bình diện song
phương và đa phương, nhưng vấn đề về nhân quyền mà cụ thể ở đây
là quyền của người lao động trong các vấn đề như lập hội,
biểu tình…đều là những nội dung đang được đàm phán.