Tư hữu hóa với các đặc tính Trung Cộng
Cái giá ngầm phải trả của nền tư bản… nhà nước
The Economist – PBD dịch
Sau vụ lật xe lửa cao tốc tại tỉnh Chiết Giang hồi Tháng Bảy, nhà
cầm quyền đã đưa xe ủi đến lấp kín chỗ lật xe. Vụ lật xe lửa này đã làm
bẽ mặt Trung Cộng và nhắc nhở mọi người là việc Trung Cộng vội vã tân
tiến hóa theo chỉ thị nhà nước đã chọn đường tắt với các tiêu chuẩn bừa
bãi về an toàn và tham nhũng khủng khiếp. Tình trạng đó ngược với lời
tuyên bố chính thức của Trung Cộng là họ đã trở thành nền kinh tế lớn
thứ nhì trên thế giới nhờ khả năng lèo lái khôn ngoan của đảng Cộng Sản.
Đảng đã tìm cách chôn giấu bằng chứng thay vì phải lúng túng vất vả đối
phó với bằng chứng ngược lại này.
Chẳng trách gì lại khó phán xét mô hình kinh tế do nhà nước lãnh đạo(*)
của Trung Cộng đến thế. Các hành động của nhà cầm quyền nay được chôn
vùi giấu kín dưới mấy trăm tấn sắt vụn, và khó mà lôi ra để điều tra.
Nhưng như chúng tôi đã tường thuật rõ ràng trước đây trong tuần, có
nhiều loại công ty bán tư khác nhau của Trung Cộng và không đáng được
ngưỡng mộ như nhiều người lầm tưởng.
Dưới thời Mao thì mọi việc đều đơn giản. Nhà cầm quyền kiểm soát tất
cả và cứ thẳng đường mà lèo lái đến nơi phá sản. Những ngày đó nay không
còn nữa. Kể từ năm 1993, Bắc Kinh đã khuyến khích "[I]cải chế[/I]” các
công ty nhà nước, tức là "thay đổi hệ thống”. Từ năm 1991 đến 2001, số
công ty của nhà nước và thuộc quyền kiểm soát của nhà nước đã giảm bớt
gần hai phần ba, từ 1,2 triệu công ty xuống còn 468.000 và tỷ lệ công
nhân thành thị làm việc trong lãnh vực công đã giảm gần phân nửa, từ 59%
xuống 32% . Nhưng "[I]cải chế[/I]” không phải chỉ đơn thuần là mỹ từ
pháp dùng để chỉ việc "tư hữu hóa”; mà còn tạo ra nhiều loại công ty bán
công bán tư khác nhau.
Ở một đầu là các công ty khổng lồ thuộc quyền kiểm soát của nhà nước
trong các ngành mà nhà cầm quyền xem là "chiến lược”, chẳng hạn như ngân
hàng, viễn thông hoặc vận tải. Các công ty đó có thể bán cổ phần thiểu
số cho tư nhân đầu tư, nhưng các công ty này hoạt động tương tự như các
bộ của chính quyền. Ví dụ về loại công ty này là Ngân Hàng Kiến Thiết
Trung Quốc (China Construction Bank), chuyên tài trợ các dự án khổng lồ
về hạ tầng cơ sở, và China Mobile, một hãng điện thoại di động lớn.
Kế đến là các công ty liên doanh giữa tư nhân (thường là ngoại quốc)
và các cơ sở của Trung Cộng do nhà nước bảo trợ. Nói chung thì hãng
ngoại quốc cung cấp kỹ thuật và thành phần hợp tác của Trung Cộng cung
cấp thị trường quốc nội. Các công ty liên doanh thường thấy trong các
lãnh vực như chế tạo xe hơi, hậu cần và nông nghiệp.
Nhóm thứ ba là các hãng có vẻ như tư nhân hoàn toàn, tức là nhà nước
không có cổ phần trực tiếp trong đó. Giới lãnh đạo các công ty này không
phải là do nhà cầm quyền bổ nhiệm chính trị, và họ hưởng thù lao nhờ
thành công thương mại hơn là đạt được các mục tiêu chính trị. Nhưng các
công ty này vẫn thường xuyên phải chịu chi phối của nhà cầm quyền. Nếu
họ được sủng ái thì các ngân hàng do nhà nước kiểm soát sẽ cho họ vay
tiền với lãi suất thấp và các "quan chức” sẽ bóp nghẹt các công ty ngoại
quốc cạnh tranh với họ. Chuyện xen vào như vậy thường xảy ra trong các
lãnh vực như năng lượng và internet.
Nhóm công ty thứ tư là do chính quyền địa phương đầu tư, thường là
qua các quỹ đầu tư vốn của thành phố vào các công ty mới thành lập hoặc
các quỹ vốn tư nhân. Các quỹ này thường đầu tư vào các công ty thử thời
vận trong lãnh vực kỹ thuật sạch hoặc để thuê mướn công nhân địa phương.
Các công ty này phải chịu các mức độ chi phối khác nhau của nhà nước
và có nhiều ưu điểm. Họ kiên nhẫn đầu tư mà không hề xao xuyến trước các
nhu cầu ngắn hạn của thị trường chứng khoán. Họ giúp nhà cầm quyền theo
đuổi các mục tiêu dài hạn, chẳng hạn như tìm nguồn thay thế nhiên liệu
hóa thạch. Họ xây đường, cầu, đập, cảng và đường hỏa xa mà Trung Cộng
cần đến để duy trì mức tăng trưởng kinh tế nhanh chóng.
Dành hết vốn đầu tư của các nhà tư bản "tre”
Nhưng chính sách nhà nước cũng gây tốn kém khổng lồ. Tốn kém đầu tiên
là tham nhũng. Khi mà các tay to mặt lớn tại địa phương có thể dành hợp
đồng cho các hãng nào do chính họ kiểm soát thì nạn hối lộ đút lót lan
tràn như cúm gà cúm vịt. Đôi khi các hãng hữu danh vô thực móc nối với
các "quan chức” mà chia nhau bỏ túi một phần đáng kể rồi mới giao công
việc thực sự cho các nhà thầu lại mà bất kể gì đến tiêu chuẩn. Vấn đề
thứ nhì là các công ty lớn được nhà nước hậu thuẫn dành hết vốn của các
công ty nhỏ, vốn đầu tư mà các công ty tư nhân thực sự của Trung Cộng có
thể sử dụng có hiệu năng hơn nhiều. Các công ty lớn này vơ vét vay mượn
để rồi cuối cùng không trả nổi nợ mà gây thành tình trạng khó khăn lớn
cho Trung Cộng. Các công ty này cũng lừa đảo bằng nhiều cách khác và
được hưởng đặc quyền ân sủng về đất đai và giấy phép. Các hãng nhỏ của
tư nhân thường không biết chắc được liệu ngay cả việc làm của họ có
được xem là hợp pháp hay không. Tình trạng đẻ ra các quỹ đầu tư vào công
ty mới của nhà cầm quyền địa phương còn tạo thêm cơ hội lợi dụng và
lường gạt nhiều hơn nữa. Một số các quỹ này sẽ đâu tư khôn ngoan, nhưng
nhiều quỹ sẽ theo đuổi các mục tiêu phi thương mại, từ việc tạo công ăn
việc làm cho đến làm giàu cho bè lũ đảng phái.
Các hoạt động này vẫn không làm chậm lại mức phát triển chóng mặt của
Trung Cộng. Nhưng phẩm chất phát triển cũng quan trọng không kém, như
được phản ảnh qua giới trung lưu lên tiếng phản đối tại Chiết Giang.
Giới lãnh đạo của Trung Cộng nên coi chừng cái giá ngầm phải trả của chủ
nghĩa tư bản nhà nước(**).
Source: http://www.economist.com/node/21528264
____________________________
Chú thích của người dịch:
(*) còn được nhóm tư bản đỏ cầm quyền độc tài toàn trị ở Việt Nam gọi là "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”!
(**) còn gọi là "tư bản đỏ”
|