Ngô
Nhân Dụng
2010/06/10
Một vị độc giả
Nhật báo Người Việt viết thư nêu ý kiến rằng nước Mỹ sẽ chẳng đời nào để tâm
đến những tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Cộng; lý do là vì Mỹ đã "nhường
Việt Nam cho Trung Cộng”
từ khi ông Nixon đi Tầu năm 1972 rồi. Vị độc giả nêu thêm một bằng cớ:
Năm 1974 quân Trung Cộng tấn công
chiếm quần đảo Hoàng Sa; trong khi Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bị tàn sát thì
Hạm Ðội Thứ Bẩy của Mỹ đứng ngoài không can thiệp mặc dù lúc đó nước Mỹ vẫn
là đồng minh. Không những thế, khi tầu Việt Nam bị đánh chìm các sĩ quan đã
điện xin chiến hạm Mỹ đến vớt các thủy thủ lênh đênh trên mặt biển, họ hoàn
toàn bất động.
Ai cũng phải tức giận trước thái độ làm ngơ vô tình của Hạm Ðội Thứ Bẩy của
Mỹ khi không cho tầu đi cứu vớt các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam. Không biết
họ có lý do kỹ thuật nào để từ chối hay không; nhưng thái độ đó không thể
nào tha thứ được.
Nhưng về mặt chính trị thì chúng ta hiểu tại sao chính phủ Mỹ quyết định
đứng ngoài không can thiệp vào vụ Hoàng Sa năm 1974. Về mặt ngoại giao cũng
như trên mặt chiến lược, nước Mỹ không thấy lý do nào đủ mạnh để can thiệp
vào vụ Hoàng Sa.
Lúc đó chính phủ Nixon đã quyết định rút khỏi Việt Nam rồi. Năm 1968, trong
khi đang tranh cử tổng thống, ông Richard Nixon đã cho cố vấn Henri
Kissinger đến gặp riêng đại sứ Nga tại Washington, yêu cầu chính phủ Nga
đừng làm gì ảnh hưởng tới cuộc bầu cử năm đó. Ông Kissinger nói với Ðại Sứ
Dobrynin rằng ông Nixon chắc chắn sẽ rút quân Mỹ khỏi Việt Nam. Và ông nhấn
mạnh: Sau đó chế độ chính trị ở miền Nam Việt Nam ra sao, Mỹ cũng không quan
tâm, "dù đó là một chế độ cộng sản.” Ðại Sứ Anatoliy F. Dobrynin đã nhắc đến
những lời Kissinger cam kết như vậy 2 lần trong cuốn hồi ký của ông ta in
năm 1995; ông kể đủ chuyện về 24 năm làm đại sứ, qua sáu đời tổng thống Mỹ
từ 1962 đến 1986 (ông mới qua đời năm 2010).
Năm 1974, sau khi Kissinger đã ký hiệp định Paris để rút quân, chính phủ Mỹ
coi những tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Cộng không dính líu đến họ. Vào
năm 1974, chính phủ Mỹ có thể đã nhìn trước thấy trước sau miền Nam sẽ bị
cộng sản chiếm. Họ không thể vì bênh vực một quốc gia sắp rơi hoàn toàn vào
tay một chính quyền cộng sản mà đi gây thêm rắc rối với Trung Cộng, một nước
mà họ đang ve vãn để cùng hợp tác chống Nga Xô!
Từ thời gian đó cho tới gần đây, nước Mỹ vẫn giữ thái độ đứng ngoài mọi
tranh chấp giữa hai nước cộng sản Việt Nam và Trung Cộng. Vùng Biển Ðông là
địa bàn tranh chấp giữa hai nước cộng sản đó, nước Mỹ không dính vào, trừ
khi có chuyện nào liên hệ tới quyền lợi của các nước Ðông Nam Á và các nước
đồng minh của Mỹ như Ðài Loan, Nhật Bản hoặc Nam Hàn. Ngay cả sau khi chính
phủ Mỹ đã mở bang giao với cộng sản Việt Nam, các vị tổng thống Mỹ như
Clinton, Bush, đã đến thăm Việt Nam và giúp Việt Nam vào tổ chức Thương Mại
Thế Giới, chính phủ Mỹ luôn công khai đứng ngoài trước các tranh chấp giữa
Bắc Kinh và Hà Nội.
Nhưng trong tuần qua, có những dấu hiệu cho thấy chính sách của Mỹ đang thay
đổi, qua các hành động và lời tuyên bố của ông bộ trưởng quốc phòng Mỹ. Ông
Robert Gates đã nhân cuộc họp mặt ở Singapore về các vấn đề an ninh khu vực
để gặp riêng bộ trưởng quốc phòng của chính quyền Cộng Sản Việt Nam. Hành
động này có thể chỉ được coi là một cử chỉ xã giao bình thường nếu không có
những lời tuyên bố của ông Gates, rõ ràng nhắm vào Trung Cộng.
Ông Gates nói thẳng đến vùng Biển Ðông (thường gọi là Nam Hải của Trung
Cộng). Ông nhấn mạnh rằng Biển Ðông là một vùng đang căng thẳng. Nước Mỹ tỏ
ra không phải chỉ quan tâm đến phía Ðông Bắc Á Châu, nơi Bắc Hàn đang gây
hấn, mà vẫn ngó về phía Nam. Nhưng ông Gates nói rõ: "Biển Ðông không phải
chỉ là mối lo của các nước chung quanh,” mà còn đáng quan tâm đối với "các
nước có quyền lợi kinh tế liên can” đến vùng này. Không nói ai cũng hiểu:
Nước Mỹ nằm trong các quốc gia có quyền lợi kinh tế trong vùng này. Nước Mỹ
phải có mặt trong vùng Biển Ðông để bảo vệ các quyền lợi đó.
Ông Gates nhắc lại chính sách của Mỹ là "ổn định, bảo đảm quyền tự do đi lại
và quyền phát triển kinh tế của các nước trong vùng Biển Ðông không bị ngăn
cản.” Ðó chỉ là những nguyên tắc chung chung, không đủ để khiến cho Trung
Cộng coi là có thái độ khiêu khích họ. Hai điều ai cũng có thể nói và ai
cũng đồng ý: Cần ổn định và tự do sử dụng đường biển nối liền vùng Ðông và
Nam Á Châu với Âu Châu và thế giới dầu lửa Á Rập.
Nhưng có một điều mới mẻ: Ðây là lần đầu tiên một vị bộ trưởng quốc phòng Mỹ
nhấn mạnh thêm đến "quyền
phát triển kinh tế không bị ngăn cản”
của các quốc gia trong vùng Biển
Ðông. Và ông ta nói trong một hội nghị về an ninh trong vùng.
Tại sao nhắc đến quyền lợi kinh tế? Vì, cũng trong câu chuyện ngày Thứ Bẩy
vừa qua, ông Robert Gates nhắc đến
chính sách Mỹ là phản đối tất cả mọi hăm dọa đối với các
công ty năng lượng dầu khí của Mỹ hay của bất cứ nước nào khác, đang hoạt
động trong khu vực này.
Ðiều này rõ ràng không thể nào hiểu lầm được: Ông Gates ám chỉ việc Trung
Cộng ngăn cấm các công ty Mỹ dò tìm dầu khí ở trong vùng biển mà Việt Nam
coi là thuộc hải phận của mình.
Năm 2007, Bắc Kinh đã làm áp lực đối với công ty British Petrolium Anh Quốc,
buộc họ ngưng hợp đồng khai thác dầu khí với Việt Nam. Năm 2008, công ty Mỹ
Exxon Mobil cũng phải rút lui không tìm mỏ dầu ở thềm lục địa Việt Nam nữa.
Nhà cầm
quyền Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn bó tay và kín miệng trước các hành động áp
bức đó. Các công ty dầu khí quốc tế thì phải tự lo quyền lợi kinh tế của
chính họ: Nếu không nghe lệnh Bắc Kinh, họ sẽ mất các hợp đồng với Trung
Cộng, là một thị trường nhiều triển vọng tốt hơn gấp bội. Nhưng chính phủ Mỹ
không thể làm ngơ, vì họ chịu trách nhiệm với Quốc Hội Mỹ, nơi các công ty
dầu lửa không ngừng vận động hành lang. Năm ngoái, nhân viên Bộ Ngoại Giao
Mỹ đã bị các đại biểu Quốc Hội chất vấn về hiện tượng Trung Cộng ngăn cản
các công ty Mỹ khi khai thác trong vùng Biển Ðông của Việt Nam.
Bây giờ, chính một vị bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã đề cập tới vấn đề này, tại
một hội nghị quốc tế về vấn đề an ninh trong vùng Ðông Nam Á. Cho nên, chúng
ta có thể thấy một bước chuyển biến mới trong chính sách ngoại giao của
chính phủ Mỹ. Họ xác định quyền lợi kinh tế của nước Mỹ trong vùng biển mà
trước đây họ coi như các tranh chấp ở đó hoàn toàn là vấn đề của các nước
chung quanh, nước Mỹ đứng xa không can thiệp. Ông Robert Gates xác định:
Nước Mỹ có những quyền lợi kinh tế trong vùng Biển Ðông. Và người đại diện
chính phủ Mỹ nói thẳng điều này với đại diện của chính phủ Bắc Kinh. Thử nhớ
lại, năm 1974 chính phủ Nixon bỏ rơi các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam cho quân
Trung Cộng tàn sát, 7 tháng trước khi ông Nixon từ chức. Ba mươi sáu năm
sau, một chính phủ Mỹ khác xác định họ sẽ bảo vệ quyền lợi của các công ty
dầu khí Mỹ trong vùng Biển Ðông, không cho Trung Cộng ngăn cản. Ðây là một
bước rẽ mới. và cũng là một cơ hội mà bất cứ nhà
cầm quyền Việt Nam nào cũng
nên bắt lấy, nếu họ thực sự lo cho quyền lợi của nước Việt Nam chứ không quá
hèn nhát chỉ lắng nghe theo những ý kiến từ Bắc Kinh.
Ðể tạo thêm sức nặng cho những lời nói trên đây, ông Robert Gates còn nói
thêm rằng chính phủ Mỹ khẳng định lại các cam kết lâu dài của họ tại Châu Á.
Hơn nữa, họ tiếp tục gia tăng và mở rộng các liên minh cũng như các quan hệ
trong khu vực này. Nhắc lại: gia tăng và mở rộng các liên minh ở Á Châu. Bài
nói chuyện của ông Gates còn nhấn mạnh rằng chính sách an ninh của chính phủ
Mỹ đang "mở rộng về mặt địa lý,” cứng rắn hơn về lập trường, và bền chắc hơn
về chính trị (một câu nói khá mơ hồ cho mọi người tự tìm cách diễn giải).
Những lời tuyên bố của ông bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ không chỉ nhắm riêng vào
mối xung đột giữa Trung Cộng với Việt Nam, mà còn nhắn nhủ chung cho các
nước Ðông Nam Á khác. Từ nửa thế kỷ nay, nước Mỹ vẫn đánh lá bài "mối đe dọa
của Trung Cộng” đối với các nước trong vùng này. Ðến nay, lá bài đó vẫn còn
có giá trị trong việc khích động các chính phủ và người dân Á Châu. Họ vẫn
thấy phải có lá dù che chở của nước Mỹ. Nếu không, các nước từ Nhật Bản, Nam
Hàn, đến Indonesia, Phi Luật Tân sẽ phải tốn rất nhiều tiền để vũ trang, có
nước sẽ làm bom nguyên tử!
Các nước Ðông và Nam Á đã được hưởng một thời gian kéo dài một thế hệ, từ
1955 đến 1985, khi Trung Cộng và Việt Cộng bị cầm chân trong cuộc chiến Việt
Nam và chiến tranh giữa các nước cộng sản Việt, Hoa và Campuchia. Trong thời
gian đó các chế độ cộng sản không thể thúc đẩy mạnh các phong trào nổi loạn
ở các nước trong vùng Ðông Nam Á. Chính nhờ 30 năm đó mà các quốc gia, từ Mã
Lai, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, vân vân, có thời gian để phát triển kinh tế;
nối gót Ðài Loan, Nam Hàn, và Hồng Kông. Một khi kinh tế đã phồn thịnh cho
người dân đủ sống thì họ được bình yên vì chủ nghĩa cộng sản hết hấp dẫn.
Thêm một thế hệ nữa đã qua, đến năm 2010 này, ông Robert Gates nhắc lại sự
có mặt của nước Mỹ trong vùng Biển Ðông. Trong lúc đó, mối đe dọa của chính
sách bành trướng của Trung Cộng còn lộ liễu hơn, mặc dù đã chuyển từ chính
sách gây bạo loạn cách mạng vô sản sang chủ trương liên kết kinh tế trong
hòa bình. Nhưng đối với các nước Ðông Nam Á, đây là những lời cam kết mới
của chính phủ Mỹ, chứng tỏ họ sẵn sàng giúp các nước vùng Biển Ðông đứng
vững trước áp lực của Trung Cộng. Tất cả mọi người Việt Nam yêu nước phải
nhìn thấy đây là một cơ hội phải bắt lấy. Nước Việt Nam không bao giờ nên
liên kết với một cường quốc ở xa để khiêu khích hoặc gây hấn với nước láng
giềng to lớn phương Bắc. Nhưng Việt Nam phải lợi dụng ngay bất cứ cường quốc
nào, khi thấy họ có quyền lợi giống như mình vì phải cùng đối phó với chính
sách bành trướng bá quyền của Trung Cộng.
|