Thứ Sáu, 2024-11-22, 3:35 AM
Welcome Guest | RSS

Dân Chủ Cho Việt Nam

Main » 2010 » Tháng Sáu » 1 » Tìm giải pháp Cứu Nước
8:16 AM
Tìm giải pháp Cứu Nước
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam có nhiều truyện tích đặc biệt, phần cốt truyện lại hay nhắc tới thời các Vua Hùng với nhiều chi tiết kỳ lạ nhưng vẫn được lưu truyền, và cưu mang ý tưởng dựng nước, mở nước, mất nước, cứu nước, giữ nước của tổ tiên giống dòng. Một trong những tích làm nổi bật vấn đề bán nước cầu lợi của giới quyền chức, mà chúng ta cần tìm hiểu và nhận định rõ chánh nghĩa và gian tà. Những hành động như xây thành/ lập đảng rồi xa dân; cậy bạo lực nỏ thần/ chế độ công an trị mà hành dân; cầu người ngòai Kim Quy/ Mác Lê mà quên dân… Xin hỏi thành vững/ đảng mạnh có ích chi, khi chính người con gái yêu của mình đã gả cho giặc, nàng lọt vào tay giặc, làm giặc? Và phải chăng quê hương mình cũng bán cho giặc, lãnh thổ lãnh hải đã thuộc về tay giặc, do giặc khai thác, giặc quyết định mọi việc? Ngàn đời trước sau như một! Truyền thuyết kể rằng:

Vào thời Hùng có Triệu Đà mang quân xâm lấn nước ta. An Dương Vương xây thành phòng thủ nhưng bị xập nhiều lần, sau phải nhờ thần Kim Qui tới giúp mới xây xong Loa Thành, và Kim Quy còn tặng cái móng làm lãy nỏ, bắn một phát giết vạn địch. Thấy vậy, Triệu Đà cho con là Trọng Thủy sang cưới công chúa Mỵ Châu. Trong thời gian ở Loa Thành chàng được Mỵ Châu cho coi chiếc nỏ thần, rồi đánh tráo lãy nỏ. Lấy được nỏ thần, Trọng Thủy về nước cùng cha mang quân qua đánh Cổ Loa. Khi biết nỏ thần hết linh, An Dương Vương đem Mỵ Châu lên ngựa chạy trốn, dọc đường nàng nhổ lông ngỗng trên chiếc áo của mình đang mặc làm dấu cho Trọng Thủy tìm theo. Thấy thế An Dương Vương rút gươm chém Mỵ Châu, máu nàng chảy xuống biển hóa thành ngọc trai. Chiếm được Loa Thành nhưng Trọng Thủy thương nhớ vợ, rồi nhảy xuống giếng tự tử. Từ đó lấy nước giếng ấy mà rửa thì ngọc trai thành sáng đẹp hơn. (Phỏng theo Kinh Việt của Nam Thiên Nguyễn Đức Sách, nxb. Hoa Tiên Rồng, Úc Châu 1990).

I. Nhận Định Thời Cuộc

1. Ngày 19 tháng 9 năm 1954 tại Đền Hùng, Hồ Chí Minh tuyên bố với cán binh sư đoàn Tiên Phong: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.” Lời nói ngạo nghễ, khẩu khí hào hùng, tưởng đâu ông cũng là người giữ nước, để tiếp nối truyền thống xây dựng và bảo vệ di sản của Các Vua Hùng. Nhưng chỉ vỏn vẹn năm sau, ông đã làm theo lệnh của người ngoài – Mao Trach Đông của Trung Quốc vốn là một kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta – mà làm cuộc cải cách ruộng đất. Ông nhẫn tâm xóa bỏ định chế làng nước, nguyên là một tuyệt tác chính trị sẵn có từ thời của các Vua Hùng để lại tới nay, hệ thống làng nước, là tổ chức giữ nước hoàn chỉnh nhất, hữu hiệu nhất, thành công nhất mỗi khi có giặc xâm phạm. Làng Việt Nam là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của người dân, mà cũng là sức mạnh của dân tộc. Do đó hành động đầu tiên, Hồ Chí Minh phản bội Các Vua Hùng.

2. Thứ đến, Hồ Chí Minh cướp đoạt tài sản bằng cách truất phế quyền tư hữu đất đai, và làm cuộc đấu tố giết người long trời lở đất. Theo tài liệu phát thanh: Cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền Bắc” của Phóng viên Nguyễn An Đài Á Châu Tự Do (RFA), "Thống kê chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam Tập II cho biết là đã có 172, 008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị "đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam… Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.

3. Ngày 14 tháng 9 năm 1958, Hồ Chí Minh lại ra lệnh cho Phạm Văn Đồng, Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tiền thân của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ký công hàm bán nước gởi Thủ tướng Chu Ân Lai, dâng những hải đảo Vạn Lý Trường Sa, Hoàng Sa… cho Trung Quốc. Công cuộc giữ nước, thay vì Hồ Chí Minh phải bộc lộ rõ ràng trong việc bảo vệ từng tấc đất của quê hương, thì ông đã bỏ mất dần.

Bởi thế lời tuyên bố tại Đền Hùng của ông năm xưa, cần được nhận định đúng đắn nhằm làm sáng tỏ chính nghĩa dân tộc, thực ra Hồ Chí Minh cũng không có "đủ tài đủ trí” của người làm việc nước: Tài biết tin tưởng vào dân nước, tài giúp dân sống thực truyền thống dân tộc, tài thấu hiểu nhu cầu thực tế của dân, tài cải tiến cuộc sống người dân. Do không đủ tài trí thông suốt việc nước, nên ông đã phải xử dụng thủ thuật chính trị để mị dân và mị cán bộ bằng cách nâng mình sánh với các Vua Hùng, mặt khác, ông cũng tự đặt mình ngang hàng với Đức Thánh Trần Hưng Đạo, như lời ông nói: "Bác anh hùng tôi cũng anh hùng…”

Vậy thì "anh hùng Hồ Chí Minh” được so sánh với người cũng thuộc dòng họ Hùng (Hùng gia chi phái) là An Dương Vương. Tiểu sử An Dương Vương được Hán sử gọi là Thục Phán dòng tộc Việt, chiếu theo thần phả ở đền Cổ Loa thì ông cũng thuộc Hùng gia chi phái. Vì không làm ích cho dân, mà còn làm mất nước, cho nên An Dương Vương không được kể vào số 18 Vị Quốc Tổ mà dân tộc ta kính thờ.

Giờ đây người hùng Hồ Chí Minh là hiện thân của An Dương Vương!

II. Bài Học Dân Nước

Muốn giữ nước, người dân phải giữ hồn nước, giữ dân nước, giữ sức nước. Hồn nước được giữ bằng việc mọi người biết sống thực, và phát huy truyền thống bất khuất của tiền nhân. Dân nước được giữ là nhờ chính quyền biết chăm lo đời sống toàn dân, và giúp dân chia sẻ trách nhiệm xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Sức nước được mạnh là nhờ chính quyền biết tổ chức các cơ cấu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, quân sự một cách hợp thời, hữu hiệu và thích nghi. Không sức mạnh lấy gì giữ nước?

1. Mất Hồn Nước

Việc xa lìa hồn nước luôn kéo theo việc bỏ dân, hành dân, xa dân, khinh dân. Khi giới quyền chức đã tin tưởng và ỷ lại vào người ngoài, thì người dân trong nước sẽ bị khinh khi rẻ rúng, bị coi là phương tiện phục dịch cho quyền lợi riêng của nhóm cầm quyền bóc lột (nhóm đặc quyền hay nhóm duy lợi). Bất cứ thể chế nào, hễ có nhóm đặc quyền là có bất công; đặc quyền càng lâu bất công lại càng tăng. Vì tất cả mọi quyền hành, kể cả quyền tuyển chọn người đại diện trong những cuộc phổ thông đầu phiếu cũng đều nằm trong tay nhóm đặc quyền. Hơn nữa, nhóm đặc quyền lại là những kẻ làm ra luật, sửa đổi luật, áp dụng luật để cho chính họ được vững thế để hưởng lợi, duy lợi.

An Dương Vương lìa xa hồn nước chạy theo Kim Quy!
Hồ Chí Minh lìa xa hồn nước chạy theo Mác Lê!

Mác Lê, Kim Quy là rùa vàng ngoại nhập, tự xưng là Thanh Giang sứ giả đến từ biển đông, chớ không mang dấu tích phát xuất trong nước, hoặc dấu chỉ Vua Hùng.

2. Mất Lòng Dân

An Dương Vương quyết định xây thành. Hồ Chí Minh quyết định lập đảng – đảng cộng sản lại là một đảng đại chúng mang tính cách hồng hơn chuyên, và cán bộ cộng sản thực hành tổ chức như đạo giáo Mac xít… nên đã khác biệt với đảng cán bộ, chính trị chuyên nghiệp như chúng ta đang thấy ở các nước dân chủ hiện hành. Chính vì quan niệm tổ chức "hồng hơn chuyên” của đảng cộng sản từ nòng cốt ra tới ngoại vi, đều hưởng lương bổng do công qũy quốc gia đài thọ, đang khi các đảng chính trị dân chủ lại chỉ có hoạt động gây quỹ thiện nguyện mà thôi.

Rồi khi xây dựng được thành vững, đảng mạnh lại tạo thêm uy thế cho nhóm người duy lợi thống trị và bóc lột nhân dân. Vậy thì sự kiện xây thành/ lập đảng đã tố cáo An Dương Vương và Hồ Chí Minh bỏ quên trách nhiệm chăm lo cho mọi người dân trong nước, mà chỉ lo cho nhóm đặc quyền. Hai ông bỏ dân!

Tiếp đến, thành xập đổ nhiều lần/ đảng đại chúng tốn hao ngân sách. Gánh nặng ấy lại đổ xuống đầu người dân, và dân phải chịu sưu cao thuế nặng, nắng mưa dãi dầu, gia đình ly tán, vợ con nheo nhóc. Hai ông hành dân!

3. Mất Sức Dân

Khi xây xong thành, An Dương Vương đã thực sự xa cách dân để hưởng thụ cuộc sống xa hoa – Cũng như sau chiến thắng Điện Biên, hay Tháng Tư Đen 1975, Hồ Chí Minh cũng như nhóm người hậu duệ của ông đã sống vương giả và không còn gần gũi với dân chúng... Nếu trước kia, các Vua Hùng luôn sống với dân, hưởng với dân, và lo với dân, thì nay, các ông rút mình vào trong vỏ ốc Loa Thành, tức ốc đảo/ ốc đảng. Đối với dân chúng, các ông đã xem họ như đám nô lệ phục dịch cho các ông. Và so sánh với các nước Đông Nam Á, thì Việt Nam chỉ còn là mảnh đất để khai thác với số công nhân rẻ mạt, với lớp người duy lợi lãnh đạo sẵn sàng bán bất cứ thứ gì để vơ vét và mang tiền ra nước ngoài, chờ ngày đào thoát như An Dương Vương khi xưa. Các ông khinh dân!

Lại thêm thành vững/ đảng mạnh làm cho các ông xa dân hơn. Vì mọi người ngoài thành/ ngoài đảng đều nằm trong tầm kiềm tỏa, đàn áp, sát hại của nỏ thần/ hoặc chế độ công an trị, là di sản chất chứa những xảo thuật gian manh, ác độc, bạo hành của Kim Quy, Lenine, Staline, Mao Trạch Đông mà Hồ Chí Minh du nhập vào Việt Nam đã làm cho dân chúng oán ghét. Các ông xa dân!

4. Mất Đất Nước

Từ chỗ đối xử với dân như giặc, An Dương Vương đem Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy, hoàng tử của giặc. Với việc xui gia giữa hai dòng vua, An Dương Vương đã tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông muốn từ nay gia đình ông phải thành một dòng họ đặc biệt, không còn liên hệ với người dân. Ông hoàn toàn tách rời dân, tách rời truyền thống văn hóa đồng bào. Thế là An Dương Vương đã rước giặc vào cung. Ông hủy bỏ công dụng của Loa Thành, và bỏ quên những người trong thành.

Đất nước tồn tại hôm nay là do Tổ Tiên dày công xây dựng và truyền lại sản nghiệp chung cho toàn dân, chớ không phải là của riêng cho nhóm đặc quyền nào, dù là tư bản hay cộng sản, mà chúng ngang nhiên ăn cướp ruộng đất người dân để biến thành sân chơi, hay làm nơi giải trí cho tập đoàn tư công ty xí nghiệp nước ngoài. Tham nhũng và chiếm đoạt đất đai của các tôn giáo như nhà thờ, chùa miếu, nghĩa địa… và nhất là tội chúng đã lén lút bán đất, bán biển, bán đảo cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta. Bauxite Tây Nguyên, rừng trồng cây nguyên liệu ở các tỉnh miền Bắc, các hãng xưởng công ty xí nghiệp khắp nơi trải dài từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mau… đã bán cho giặc, hoặc cho giặc thuê mướn khai thác. Tất cả đã nằm gọn trong tay giặc, và do giặc định đoạt số phận dân nước. Các ông có còn gì nữa đâu để mà giữ, mà mất?

Tóm lại, bài học dân nước thực thấm thía. Bỏ trách nhiệm chăm sóc dân, các ông dựa vào thành vững đảng mạnh, dựa vào bạo lực nỏ thần, dựa vào chế độ công an trị, thì việc giữ nước chỉ là để các ông thi thố những thủ đoạn tranh đoạt quyền lợi với nhau, và người dân trở thành mục tiêu đàn áp, bạo hành của các ông. Các ông đang muốn giữ nước mà lại trở thành cướp nước!

III. Ảo Tưởng Giữ Nước

An Dương Vương và Hồ Chí Minh đều có chung ảo tưởng là mình còn đang giữ nước, đang thực hiện công cuộc cách mạng chuyên chính vô sản, mà người xưa lạc hậu, không thể làm được cho nên các ông mới dám sánh mình với các Vua Hùng? Nhưng hai ông lầm to, Tổ Tiên ta còn giỏi hơn, tinh tế hơn các ông rất nhiều. Bởi vì Các Ngài đã từng đánh thắng những loại giặc mạnh nhất, dữ nhất trong lịch sử. Thứ đến, các ông lại lầm tưởng "bác cháu ta cùng nhau giữ lấy nước” như An Dương Vương và Hồ Chí Minh, để hoàn thành việc nước một cách tuyệt hảo? Nhưng sở dĩ hiện nay đất nước còn yên lành, là vì giặc chưa muốn chiếm, hoặc không cần chiếm về phương diện quân sự như ngày xưa, mà giặc đang chiếm về phương diện kinh tế như trong thời nay. Công chúa Mỵ Châu đã gả cho Trọng Thủy con giặc, thì nàng đã thuộc về giặc, và nàng thành ra người của giặc. Tất cả đã là của giặc!

1. Nhận Hồn Giặc

a. Đã xa lìa nếp sống người dân, đã chỉ cậy nhờ vào người ngoài, An Dương Vương lại đem công chúa Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy. Mỵ Châu là biểu tượng của tinh thần Việt. Trọng Thủy là con của giặc Triệu Đà Bắc Thuộc. Đang khi hắn là một tên xâm lăng khiến An Dương Vương phải xây thành chống cự. Trọng Thủy bỗng ngang nhiên được bước vào tung hoành tận thâm cung bí sử của Loa Thành. Đang là một tên giặc nguy hiểm, Trọng Thủy trở thành người đầu gối tay ấp với nàng tiên Việt Mỵ Châu. Từ chỗ tùy thuộc vào người ngoài, vua Hùng An Dương Vương bước sang giai đoạn rước giặc vào nhà, và nàng tiên Mỵ Châu, biểu tượng cho tâm hồn Việt, cũng đã nhận giặc làm chồng mà ôm ấp giặc.

b. Tương tự, người hùng Hồ Chí Minh cũng khẩn khỏan cầu xin Mao Trạch Đông cử những đoàn cố vấn sang giúp Việt Nam giúp ông lập đảng vào tạo dựng sự nghiệp cho nhóm đặc quyền. Năm 1950, sau khi tiến chiến Hoa Lục Mao chủ tịch đã cử hai tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh sang Việt Nam điều nghiên địa hình và chiến trường, có nghĩa là nước ta bị lọt vào vòng cương tỏa của Trung Quốc ngay từ ngày ấy. Năm 1951 – 1952, Mao Trạch Đông lại cử đại sứ Lã Quý Ba làm tổng cố vấn, với các cố vấn quân sự Vi Quốc Hân, cố vấn cải cách ruộng đất Triểu Hiểu Quang nguyên phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây… và nhiều cố vấn đoàn đông người ồ ạt sang huấn luyện đào tạo cán bộ cho Việt Nam. Mọi người đã thành học trò của giặc! Mọi sự đều do giặc cố vấn!

Cũng thế, cớ sự lấy chồng là giặc/ bán đất bán biển đã rõ ràng như vậy, Mỵ Châu và đám hậu duệ của Hồ Chí Minh vẫn chưa cho là đủ, mà còn tiến thêm bước nữa. Nàng yêu chiều Trọng Thủy đến nỗi đưa cả nỏ thần, vũ khí quan trọng tối mật của quốc gia, cho chàng coi. Tuy không hoàn hảo, nhưng đất nước tạm thời yên ổn là nhờ thành vững và nỏ thần. Thế mà cha con An Dương Vương đã rước giặc vào nhà và để cho giặc phá lũng thành, giờ đây, còn làm theo ý giặc là trao cho giặc luôn cả nỏ thần. Mỵ Châu đã coi ý giặc hơn cả sự an toàn của dân nước. Nàng đã yêu quý giặc hơn cả đồng bào quê hương mình, với 16 chữ vàng: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.” Thế thì còn gì là nước, là dân?

2. Theo Ý Giặc

a. Khi Loa Thành thất thủ, và trên lưng ngựa cùng cha chạy trốn, Mỵ Châu còn nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo của mình đang mặc, tung xuống làm dấu chỉ đường cho Trọng Thủy tìm theo. Thực là chua chát, nàng Tiên đã hoàn toàn quên mình vì giặc! Giờ đây, nàng chỉ còn chiếc áo lông ngỗng, là hình ảnh cuối cùng của Tiên, mà nàng cũng nhẫn tâm rứt bỏ vì giặc, cho giặc!

Còn hình ảnh nào phũ phàng hơn, đau buồn hơn hành động của những kẻ lại mang chính máu huyết, chính hình hài của các Vua Hùng dựng nước, mà làm phương tiện lót đường cho giặc xâm lăng cướp nước? Như "bác cháu ta” An Dương Vương và Hồ Chí Minh đã làm.

b. Lông đã nhổ, lớp áo tiên mỏng manh bên ngoài cũng đã nhổ, tinh thần Việt đã cạn, hồn nước đã mất thì Mỵ Châu, An Dương Vương cho tới Hồ Chí Minh cũng phải gục chết. Lâu nay tuy tâm hồn đã đổi thay, nhưng các người vẫn còn mang mặc chiếc áo Tiên/ tinh thần dân tộc. Mỵ Châu là Tiên, là biểu tượng cho tinh thần, cho ý thức văn hóa trong việc Giữ Nước. Nay mất Tiên thì mất Nước! Giờ đây các người đã lộ nguyên hình là giặc!

Nhưng mất theo nàng, theo An Dương Vương, theo Hồ Chí Minh lại là mất theo cả một đất nước, một dân tộc, lịch sử giống dòng. Quả thật là chua chát và đắng cay!

VI. Diễn Tiến Mất Nước

Trong truyền thuyết mất nước, tuy liệt kê nhiều nhân vật đã góp phần làm mất nước, nhưng mọi việc đều quy về cho An Dương Vương và Hồ Chí Minh. Hai ông phải chịu trách nhiệm về sự việc làm mất nước, đã rước giặc về nhà, giúp cho giặc và tạo cho giặc mọi điều kiện để giặc đặt ách nô lệ lên đầu người dân. Trước diễn tiến mất nước, mọi sự kiện làm mất nước được thể hiện qua những giai đoạn cầu lợi, mà các ông đã quên những nhân tố Giữ Nước của mình:

1. Thân Phận Là Người

Từ chỗ không chăm lo cho cuộc sống an thịnh của dân nước, các ông để lộ tham vọng lẫn ảo tưởng giữ nước mình, bằng cách muốn hóa thân thành thánh thần siêu nhân/ cha già dân tộc buộc toàn dân suy phục tôn kính. An Dương Vương và Hồ Chí Minh bỏ nguyên tắc nền tảng đầu tiên của Người Làm Việc Nước, là phải luôn xác tín Thân Phận Là Người. Khi quan tâm tới việc thờ kính Tổ Tiên, người trị nước luôn nhớ rằng mình không phải là chúa tể tối cao, vì cùng với ông, và trên ông, còn có những vị khuất mặt: Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi. Các vị khuất mặt ấy đã luôn luôn giám sát ông, xét đoán ông, khen thưởng hay trách phạt ông.

Chính ca1i nền tảng tinh hoa của văn hóa Việt, đã giúp cho Người Làm Việc Nước luôn nhớ tới thân phận Con Người của mình, nhờ đó, mà họ tránh được sự tự kiêu quá đáng và thoát khỏi ảo tưởng độc tôn, độc tài.

2. Mang Nặng Trách Nhiệm

Từ chỗ tự phong xem mình là cha già dân tộc, là "bác hồ” muôn năm hay là thần thánh siêu nhân thì An Dương Vương và Hồ Chí Minh cũng bắt đầu khinh dân, xa dân, biến dân thành nô lệ phục vụ cho tham vọng của nhóm đặc quyền. Các ông đã bỏ nguyên tắc thứ hai của Người Làm Việc Nước, là Mang Nặng Trách Nhiệm. Thay vì cùng với toàn dân chia sẻ gánh nặng giữ nước, thì các ông lại dùng bạo lực ốc đảng/ nỏ thần, dùng chế độ công an trị mà uy hiếp và chiếm đoạt ruộng đất tài sản của dân nghèo, tham ô nhũng nhiễu, hối mại quyền thế, mãi quốc cầu vinh.

Đang khi văn hóa Việt, chẳng những nhấn mạnh tới điều kiện của người lãnh đạo đất nước, là phải nhận thực thân phận Con Người của mình, việc thờ kính Tổ Tiên lại đang nhắc nhở tới công ơn dựng nước của tiền nhân giống dòng. Đất nước hôm nay không phải do một người, một dòng họ, một nhóm người, hay đảng phái nào gầy dựng, mà là công lao xương máu của cả một dân tộc trải qua bao trăm đời liên tục.

Nhờ việc thờ kính Tổ Tiên mà người làm việc nước luôn ghi nhớ sự đóng góp của mọi người, và ý thức sứ mạng cùng với toàn dân nối tiếp, phát huy sự nghiệp của các Vua Hùng. Bởi thế lãnh đạo là người mang nặng: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm, chớ không để thao túng quyền chức hay vui chơi hưởng thụ.

3. Đủ Tài Đủ Trí

Từ chỗ coi dân như một lũ nô lệ, luôn cúi đầu khuất phục các ông. Thế là đối với dân nước, An Dương Vương và Hồ Chí Minh không còn là người làm việc nước để giữ nước, mà đã thành những tên cướp nước. Các ông đã bỏ nguyên tắc thứ ba của Người Làm Việc Nước, là phải có Đủ Tài Đủ Trí trong việc vận dụng và tìm ra những phương thức, những luật lệ giúp mọi người dân trong nước biết san sẻ tài năng và của cải cho nhau, giúp nhau thăng tiến.

Do đó, người lãnh đạo tuyệt hảo là người có đủ tài đủ trí để cùng với toàn dân chia sẻ cuộc sống, để mọi người trong nước đều chung phần trách nhiệm giữ nước. Tuy ở tầm độ khác nhau, nhưng mọi chức vụ đều là trách nhiệm.

4. Phương Thức Giữ Nước

Trải qua bao ngàn năm dựng nước, giữ nước của Tổ Tiên, làng là đơn vị kinh tế vừa là đơn vị quốc phòng, là cơ sở sản xuất vừa là tiền đồn chống giặc, là cái nôi bảo bọc giúp mọi người no cơm ấm áo, thăng tiến cuộc sống toàn vẹn. Định chế làng nước đã trở thành tuyệt tác chính trị vô song, giữ nước hoàn chỉnh nhất, giữ nước hữu hiệu nhất, giữ nước thành công nhất mỗi khi có giặc xâm phạm. Ngay từ thời nhà Đinh và tiền Lê tới nay, vấn đề ruộng đất ở nước ta đã được mọi người thừa nhận là của công, của chung, của vua. Và theo chính sách "công điền công thổ và chia đất định kỳ,” vua có quyền sở hữu quân điền, nhưng trao cho làng cái quyền hưởng dụng để quân cấp cho toàn dân.

Thực tế, ruộng đất do dân cày cấy lâu ngày sẽ thành của riêng, tư điền. Và dân có quyền mua bán, đổi chác, kế thừa… rồi sẽ thành lãnh địa như các lãnh chúa bóc lột tá điền nô lệ trong các xã hội bất công khác. Bởi thế, sống trong xã hội đồng bào, xã hội Bọc Mẹ Trăm Con, và để giúp cho toàn dân có cơ hội an cư lạc nghiệp, triều đình ta đã luôn cải cách ruộng đất nhằm chia đều cho mọi người cùng hưởng – như trong sách Espuis Des Lois, Montesquieu nhận định, "Trong một nền dân chủ tốt chia đều đất đai chưa đủ, mà cần phải chia nhỏ ruộng đất cho mọi người...” Thật là đúng đắn, trong xã hội dân chủ Việt, vua đã trao cho làng giữ và cấm bán, trừ trường hợp ngọai lệ có thể cầm cố trong 3 năm, hết hạn giao nộp để làng quân cấp cho tráng đinh mới. Công điền công thổ và chia đất định kỳ của Việt Nam được gọi là phép quân điền (đất vua), khác biệt với tĩnh điền của Trung Quốc, mà có người lầm tưởng.

Theo truyền thuyết, nhà Thương chia ruộng cho thị tộc mạnh ai nấy hưởng, nhưng tới nhà Chu áp dụng phép tĩnh điền, là chia đất ra thành 9 khu hình chữ tĩnh, khu giữa là công điền và 8 khu kia chia cho thị tộc canh tác, nộp hoa lợi cho vua. Đời Xuân Thu, tướng nhà Tần, Thượng Ưởng bãi bỏ phép tĩnh điền và cho quyền tự do khai thác trở lại như thời nhà Thương, và chỉ nộp địa tô. Họ áp dụng chính sách này, gọi là trung ương tập quyền, tức quân chủ chuyên chế và bãi bỏ phép tĩnh điền, truất phế các lãnh chúa thị tộc đã từng khuynh đảo nền chính trị Đại Hán thời bấy giờ. Bởi thế họ khác biệt với định chế làng nước ta, cho nên xã hội Trung Quốc sinh ra quái thai bất công, ác thú đấu tranh, mạnh thắng yếu thua.

a. Chung Hưởng Lợi Ích

Công điền công thổ và chia đất định kỳ, thì việc cải cách ruộng đất là hữu sản hoá để toàn dân có cơ hội phát triển đời sống kinh tế của từng người, bắt đầu từ mảnh đất mà dân làm chủ (tư hữu). Thời nhà Trần, Lê Quý Ly đề xướng phép hạn điền, người có trên 10 mẫu nộp cho vua làm quân điền. Quân cấp cho dân, làng giữ lại số ruộng làm công quỹ như:

- Bút điền, ruộng dùng trong việc chi phí bút nghiên giấy tờ hộ tịch.
- Trợ sưu điền, ruộng được trích ra cho người nghèo giúp họ đóng thuế đinh.
- Học điền, ruộng để hội tư văn dùng thuê thày dạy học cho dân trong làng.
- Cô nhi quả phụ điền, ruộng dành để giúp cho trẻ mồ côi/ già góa phụ nghèo khổ.
- v.v…

b. Tự Ý Quy Tụ

Đặc tính nền tảng của làng, là dân tự ý tới ở và quy tụ thành làng. Tuy cách khởi lập làng có khác nhau, nhưng điều kiện dựng làng vẫn là lợi ích và tự quyết của những người quy tụ, không ai buộc ai. Làng được thành lập không chỉ vì lợi ích vật chất, biến những nơi khô cằn sỏi đá hoang vu thành miền đất trù phú phì nhiêu, mà còn mang mặc nhiều lợi ích tinh thần. Làng giúp dân thoát nạn bơ vơ không nơi nương tựa, giúp dân có cuộc sống ấm no an lành trong một xã hội đồng bào.

Nếu chỉ để thu tích của cải, hay lợi lộc vật chất, thì dù người ta sống dưới bất cứ chính thể nào, tư bản/ hay cộng sản đã không giúp ích gì vậy, vì đã biến dân thành lớp nô lệ, hay những con vật kinh tế. Bởi thế tụ họp thành làng, mọi người chia sẻ cảnh sống vui buồn có nhau, giúp nhau vượt thắng khó khăn, cùng nhau gánh vác trách nhiệm, cùng nhau xây đắp cho đời, cho làng, cho nước mỗi ngày một tăng tiến giầu đẹp. Trái lại, cũng không có ai bị buộc phải cư trú tại một nơi nhất định, mà người ta có thể tùy theo sở thích, đến ở hay bỏ đi, miễn sao chấp nhận lệ làng được lập thành văn. Hương ước/ hay khoán ước là bản ghi lệ làng, tức hiến pháp làng ấn định hệ thống tổ chức hành chánh, luật lệ, thưởng phạt, phân chia ruộng đất canh tác, thuế khóa. Cũng từ đó luật pháp của nước là thành tập hợp hương ước của các làng. Hội Nghị Diên Hồng đã mang được hình ảnh của các lệ làng ra ứng dụng ở cấp nước, do đó dân tộc ta đã thành công trong việc cứu nước và mở nước như trong giai đoạn của thời nhà Nguyễn sau này.

Khác với tổ chức chính trị của nhiều quốc gia, quyền hạn vua quan ta không can thiệp vào đời sống dân và cũng không xâm phạm vào sinh hoạt làng. Đối với triều đình, mỗi làng là một quốc gia thu hẹp có chủ quyền; việc làng do dân làng tự quyết. Làng tự lập và có ban quản trị riêng do dân bầu, và điều lệ riêng cho hệ thống hành chánh làng. Làng có ngôi đình thờ vị thành hoàng riêng với nghi thức nghi lễ riêng. Làng có tổ chức trị an riêng, với tiêu chuẩn thưởng phạt riêng. Dĩ nhiên làng có tài sản riêng và có quyền xử dụng ngân sách theo nhu cầu. Trong phạm vi làng, phép vua thua lệ làng, bởi thế không một chế độ nào trực tiếp do dân, của dân và vì dân hơn định chế làng nước.

c. Đóng Góp Cho Nước

Theo định chế làng nước, quan chức của triều đình chỉ phân xuống tới phủ huyện, từ tổng trở xuống làng thuộc quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người đại diện và cử ban quản trị hành chánh địa phương. Tổng có vài làng/ xã, gồm cai tổng và phó cai tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra để điều hành quản trị việc thuế khóa, đê điều và an ninh. Thể chế làng nước đã ứng dụng hai nguyên tắc căn bản của chính thể dân chủ văn minh: tản quyền và phân quyền.

Nguyên tắc tản quyền: Trung ương/ nước dành cho địa phương/ làng một số quyền tự lập và tự quyết. Chúng ta có thể nhìn thấy hình ảnh làng qua chính thể Liên Bang tại nhiều quốc gia. Tiểu bang/ làng có quốc hội và ngân sách riêng, và người dân được quyết định một số quyền lợi mà họ có nghĩa vụ.

Nguyên tắc phân quyền: Cơ cấu tổ chức làng áp dụng nguyên tắc phân quyền, gồm có Hội đồng kỳ mục hay tiên chỉ, gồm những vị bô lão đại diện họ tộc trong làng. Hội đồng này quyết định những việc quan trọng của làng, tương đương như một quốc hội cấp nước. Ban lý dịch hay chức dịch là những người điều hành công việc hành chánh làng. Từ đó hình dung sự phân quyền trong làng, theo hai cơ cấu hành pháp và lập pháp của một quốc gia thu hẹp.

Tóm lại, với truyền thống ngàn năm của nếp sống dân Việt, với kinh nghiệm đau đớn của Loa Thành. Tổ Tiên ta quyết không xây thành/ dựng đảng cho vua chúa, không tập trung bạo lực. Mà lập làng làm hệ thống phòng thủ nơi toàn dân, và từ lòng dân, làng của dân trở thành một mạng lưới thành lũy tre xanh, và lực lượng thanh niên hào hùng trải rộng khắp đất nước.

Với thể chế làng nước, làng Việt chính là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của người dân, mà còn là sức mạnh của nước. Và trước mọi cuộc xâm lăng của mọi lãnh vực, trước mưu đồ thôn tính của mọi loại giặc, hệ thống tổ chức làng nước đã giúp dân tộc ta bảo toàn lực lượng, phục hồi sức mạnh, vùng lên phá giặc.

V. Kết Luận

Bi kịch Loa Thành thất thủ ngày xưa đã dẫn tới cái chết của người đẹp Mỵ Châu dưới lưỡi gươm oan nghiệt của An Dương Vương, của Hồ Chí Minh, và các ông cũng phải chết trên đường trốn giặc mà thôi. Nhưng oan nghiệt thay! Mất theo nàng, mất nhóm đặc quyền, lại mất cả một dân tộc, một lịch sử giống dòng! Điều mà An Dương Vương và Hồ Chí Minh đã không đủ tài đủ trí của người làm việc nước, bởi vì con người chỉ có thể sống xứng đáng, trọn vẹn, và hạnh phúc khi thể hiện đầy đủ các đặc tính bẩm sinh, vừa cá thể lại vừa xã hội. Có nhà mà cũng có nước, có nước mà cũng có nhà!

Phạm Văn Bản
Category: Chính trị | Views: 536 | Added by: danchu | Rating: 0.0/0
Total comments: 0
Only registered users can add comments.
[ Registration | Login ]
Login form
Search
Calendar
Our poll
Đánh giá
Total of answers: 887
Site friends
Statistics

Đang online: 12
Khách: 12
Thành Viên: 0