Một Người Dân (danlambao)
- Sáng nay Báo Thanh đăng bài viết "bất thường’ nói về việc thu ngân
sách Nhà nước vẫn cao trong khi hàng loạt doanh nghiệp giải thể hoặc
ngừng hoạt động. Theo bài viết , 9 tháng qua đã có 48.700 doanh nghiệp
giải thể hoặc ngừng hoạt động nhưng thu ngân sách Nhà nước đạt 467.100
tỷ đồng , đạt 78,5% kế hoạch năm là con số khá cao
Lý giải cho hiện tượng này bài báo viết : Câu hỏi đặt ra là , nguồn thu
cao nhờ đâu ? Có hai khả năng , hoặc số doanh nghiệp này không đóng một
đồng thuế nào cho Nhà nước , hoặc khoản mất đi từ số này sẽ được tận thu
ở nhóm còn lại . Nghĩa là , ngánh nặng thuế đang được đặt trên vai các
doanh nghiệp còn sống . Đọc đoạn trên thấy một điều bất thường trong
cách viết của bài báo . Bài báo viết là có hai khả năng làm tăng nguồn
thu cho ngân sách , khả năng thứ nhất , trích : "hoặc số doanh nghiệp
này không đóng một đồng thuế nào cho Nhà nước” hết trích . Kỳ thật không
có đóng một đồng thuế nào thì làm sao dẫn đến tăng thu cho ngân sách
được . Vậy thì nguồn tăng thu của ngân sách là ở khả năng thứ hai , là
"tận thu ở nhóm còn lại . Nghĩa là gánh nặng thuế đang được đặt lên vai
các doanh nghiệp còn sống " . Nhưng thực tế có phải như bài báo viết
hay không ???
Việc thu thuế ở nước ta hiện nay do các doanh nghiệp tự kê khai và nộp ,
Nhà nước có kiểm tra nhưng không kiểm tra hết được . Các khoản doanh
nghiệp trốn thuế (không kê khai nộp đủ) mà ngành thuế phát hiện ra hầu
hết là tham nhũng , chỉ truy thu cho ngân sách một phần . Doanh nghiệp
‘tự kê khai và nộp thuế’ nên không thể nói là nhà nước áp đặt việc thu
thuế đối với các doanh nghiệp là "tận thu” được . Không thể nói :”gánh
nặng đang đè nặng lên vai các doanh nghiệp còn sống" được , Có chăng áp
đặt việc thu thuế là đối với các hộ kinh doanh nhỏ lẻ đang nộp thuế
khoán cho nhà Nước, nhưng khoản thu này nhỏ không thể làm tăng bất
thường cho ngân sách Nhà nước .
Nguồn thu tăng bất thường cho ngân sách Nhà nước 9 tháng qua cũng có hai
khả năng , hai khả năng này là nguồn thu bổ sung cho ngân sách Nhà nước
nhưng không phải là thuế . Khả năng thứ nhất là các khoản lợi nhuận
tích lũy từ các doanh nghiệp Nhà nước nhiều năm qua . Thực chất đây là
khoản thu mà Nhà nước chiếm đoạt từ lợi nhuận xã hội ở các ngành sản
xuất bỏ vào ngân sách
Ta đã biết ngành sản xuất nào cũng có lợi nhuận , việc cạnh tranh sẽ làm
cho lợi nhuận các ngành đều dẫn đến lợi nhuận bình quân . Nhưng cơ chế
độc quyền một số ngành của Nhà nước dẫn đến việc kinh doanh các ngành
này không còn là "lợi nhuận bình quân " nữa , mà là lợi nhuận độc quyền .
Lợi nhuận này do Nhà nước chiếm đoạt
Lâu nay thu ngân sách Nhà nước có các khoản thu lợi nhuận đút kết từ quá
trình kinh doanh của các doanh nghiệp , Nhà nước thu các khoản này với
tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp , nhưng Nhà nước không công bố con
số thực của khoản thu này mà tù mù như chuyện giá xăng dầu . Các khoản
lợi nhuận của doanh nghiệp Nhà nước , đúng ra là Nhà nước phải thu hàng
năm bổ sung cho ngân sách nhưng Nhà nước không thu mà để nó ở dưới dạng
quỹ ở các doanh nghiệp Nhà nước . Khi có việc cần chi Nhà nước mới thu
về nên nó mới xảy ra hiện tượng bất thường về thu ngân sách Nhà nước 9
tháng đầu năm nay
Số liệu của bài báo "bất thường” trên của báo Thanh Niên đã chứng minh
điều này . Bài báo viết : Nhìn về lịch sử, có thể thấy, thu ngân sách
của ta đã tăng liên tục trong nhiều năm. Nếu như những năm 1990, nguồn
thu của ta chỉ chiếm 15 - 17% GDP, đến năm 2000 khoảng 20 - 22% GDP thì
đến nay con số này đã lên tới 28 - 30% GDP. Trong khi tỷ lệ tương ứng
của các nước đang phát triển là 15% - 17%, Trung Quốc khoảng 20%.
Qua số liệu trên ta thấy : nếu chỉ thu ngân sách bằng thuế không thôi
như các nước tư bản chủ nghĩa thì nguồn thu chỉ đạt tỉ lệ tương ứng là
từ 15-17% GDP . Nguồn thu ngân sách cao hơn tỉ lệ này , đạt 28-30% GDP ở
ta và 20-22% ở Trung Quốc là chỉ có ở các nước XHCN vốn đang có các
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
Nguồn thu này nó đã và đang làm cho đất nước ta bị : "dân nghèo , nước
yếu” . Bỡi vì theo con số trên, ở các nước họ chỉ huy động 15-17% giá
trị của GDP vào ngân sách Nhà nước dưới các khoản thu là thuế . Còn ở
nước ta thu ngân sách Nhà nước tăng lên đến 28-30% GDP . Khoản tăng lên
này thực chất là các khoản lợi nhuận xã hội mà lẽ ra người dân được
hưởng nhưng Nhà nước đã chiếm đoạt . Người dân mất cơ hội kinh doanh làm
ăn , chỉ là những người được hưởng lương chứ không được hưởng trọn vẹn
về các khoản lợi nhuận xã hội như ở các nước khác . Vì thế dân không
giàu và cuối cùng là nước không mạnh
Khả năng thứ hai về nguồn thu ngân sách Nhà nước tăng bất thường trên ,
đó là khoản thu về tiền đã bán biển đảo cho bọn Tàu Khựa
Một người dân
http://danlambaovn.blogspot.com/
Bất thường
Hàng loạt doanh nghiệp
phá sản nhưng thu ngân sách vẫn cao. Việc tận thu của ngân sách trong
những năm qua đã và đang dẫn đến hàng loạt các hệ lụy cho nền kinh tế.
Theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 9 tháng qua đã có 48.700
doanh nghiệp giải thể hoặc ngừng hoạt động. Kinh tế khó khăn, doanh
nghiệp phá sản là chuyện bình thường. Điều bất thường là dù một số lượng
không nhỏ doanh nghiệp chết, thu ngân sách 9 tháng vẫn ở mức cao, ước
đạt 467.100 tỉ đồng, bằng 78,5% dự toán năm. Câu hỏi đặt ra là, nguồn
thu cao nhờ đâu? Có 2 khả năng, hoặc số doanh nghiệp này không đóng một
đồng thuế nào cho Nhà nước, hoặc khoản mất đi từ số này sẽ được tận thu ở
nhóm còn lại. Nghĩa là, gánh nặng thuế đang được đặt lên vai các doanh
nghiệp còn sống. Trong bối cảnh phải đối mặt với hàng loạt các khó khăn
như giá cả đầu vào tăng cao, lãi suất cao..., việc bị tận thu có thể đẩy
các doanh nghiệp đến chỗ chết, hoặc phải trốn thuế. Nhưng đây mới chỉ
là bề nổi. Việc "vắt sữa quá mức" chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến
việc chi dàn trải, thiếu hiệu quả ở nhiều lĩnh vực, dẫn đến lạm phát,
thâm hụt ngân sách...
Nhìn về lịch sử, có thể thấy, thu ngân sách của ta đã tăng liên tục
trong nhiều năm. Nếu như những năm 1990, nguồn thu của ta chỉ chiếm 15 -
17% GDP, đến năm 2000 khoảng 20 - 22% GDP thì đến nay con số này đã lên
tới 28 - 30% GDP. Trong khi tỷ lệ tương ứng của các nước đang phát
triển là 15% - 17%, Trung Quốc khoảng 20%. Nghĩa là so với chính mình và
so với các quốc gia trong khu vực, mức tăng của ta đều cao. Nguồn thu
tăng đáp ứng được một phần chi tiêu nhưng lại không nuôi dưỡng được
nguồn thu. Hay nói cách khác, việc biến tiết kiệm của doanh nghiệp thành
nguồn thu của ngân sách nhà nước đã khiến doanh nghiệp bị kiệt quệ,
không có sức đề kháng và luôn tìm cách để lách thuế. Thu tăng, đương
nhiên chi phải tăng theo. Đây chính là nguyên nhân của việc đầu tư tràn
lan, thiếu hiệu quả mà Chính phủ đã thừa nhận và đang nỗ lực cắt giảm
đầu tư công để kiểm soát lạm phát.
Chúng ta đều biết, điểm yếu nhất của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là
vốn. Ngay cả những doanh nghiệp lớn, vốn vẫn là yếu tố khiến họ bị thua
thiệt tại sân nhà cũng như trên thị trường quốc tế. Thiếu vốn cũng là
nguyên nhân khiến các doanh nghiệp dễ lao đao và luôn đòi hỏi được hỗ
trợ, giúp đỡ khi kinh tế trong nước và quốc tế biến động. Vì vậy, chính
sách phải theo hướng để doanh nghiệp tiết kiệm, tăng phần tái đầu tư.
Thay vì tận thu, nên giảm thuế cho các doanh nghiệp tư nhân để họ dùng
lợi nhuận tăng vốn chủ sở hữu. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, việc
giảm thu sẽ tạo cơ hội để doanh nghiệp có thể tái cấu trúc, chuẩn bị cho
một bước ngoặt cạnh tranh mới khi kinh tế thế giới bước qua khủng
hoảng.
Nghe có vẻ vô lý nhưng đã đến lúc phải giảm thu ngân sách. Bởi chỉ có
giảm thu mới có thể giảm chi và mới đưa thâm hụt ngân sách về ngưỡng hợp
lý cũng như không đặt gánh nặng thuế lên vai doanh nghiệp.
Nguyên Hằng