Việc bắt giữ và xét xử Tiến sĩ
Luật Cù Huy Hà Vũ là trái với công
pháp quốc tế, bởi vì chiếu theo Công
ước quốc tế về Quyền Dân sự và Chính
trị, ông Hà Vũ hoàn toàn vô tội.
Đó là nội dung chính bài phỏng vấn
sau đây với ông Vũ Quốc Dụng, tổng
thư ký Hiệp Hội Quốc Tế Nhân Quyền
tại Đức
RFI : Thưa ông, trên
mạng trong những ngày qua đã có rất
nhiều bài tranh luận về vụ xử Tiến
sĩ Cù Huy Hà Vũ. Cách đây mấy ngày,
có một bài mang tựa đề «
BẢN CHẤT
NHỮNG VIỆC LÀM VỪA QUA CỦA CÙ HUY HÀ
VŨ », nói về những lý do Việt Nam
bắt giữ và xét xử ông Cù Huy Hà
Vũ. Bài viết cho rằng vụ xử này phù
hợp với luật pháp Việt Nam cũng như
công pháp quốc tế. Ông nghĩ gì về
lập luận này ?
Vũ Quốc Dụng :
Tôi xin phép tóm tắt vấn đề như thế
này : Xét theo luật quốc tế thì Tiến
sĩ Cù Huy Hà Vũ vô tội. Nếu trong
phiên xử dự kiến vào ngày 4 tháng 4
tới đây mà Việt Nam xử Tiến sĩ Hà Vũ
là có tội, thì Việt Nam sẽ vi phạm
luật quốc tế. Vấn đề này từng được
nêu lên trong phiên xử luật sư
Nguyễn Văn Đài hồi 4 năm trước đây,
nhưng chính quyền Việt Nam đã không
chịu trả lời.
Tôi không hiểu tại sao chính
quyền Việt Nam cứ tiếp tục duy trì
tình trạng vô lý này. Một mặt, Việt
Nam đã tham gia ký kết Công ước quốc
tế về Quyền Dân sự và Chính trị. Rồi
Việt Nam cũng đã làm ra Luật Ký Kết,
Gia Nhập và Thực Hiện Điều Ước Quốc
Tế. Luật này qui định rằng luật quốc
tế có giá trị cao hơn luật Việt Nam
và phải ưu tiên áp dụng luật quốc tế
trong trường hợp có mâu thuẫn.
Ðiều 6 khoản 1, Luật Ký Kết, Gia
Nhập và Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế
Việt Nam quy định : "Trong trường
hợp các văn bản Việt Nam khác với
quy định của điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên, thì Việt Nam
sẽ áp dụng các quy định của điều ước
quốc tế đó."
Thế nhưng trên thực tế, Việt Nam
vẫn tiếp tục vi phạm các điều ký kết
với quốc tế. Điểm mấu chốt là bộ
luật Hình sự của Việt Nam có nhiều
điều khoản vi phạm luật nhân quyền
quốc tế, nhưng chính quyền Việt Nam
lại không chịu sửa luật cho phù hợp.
Theo tôi, chỉ cần áp dụng nghiêm
chỉnh đạo Luật Ký Kết, Gia Nhập và
Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế của Việt
Nam, thì tòa án cũng có thể xử cho
tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ vô tội.
Bài viết nói trên là bài viết
bênh vực chính quyền, khi cho rằng
chính quyền Việt Nam làm đúng luật
quốc tế. Rất tiếc bài viết nói trên
mang đầy những lý luận ngụy biện.
Một nhà báo có uy tín trong nước là
cô Đoan Trang cho rằng, đây là luận
điệu của chính quyền.
RFI : Tác
giả bài viết nêu trên cho rằng chính
quyền Việt Nam không vi phạm Điều 19
của Công ước quốc tế về Quyền Dân sự
và Chính trị (CƯQT QDSCT). Họ cho
rằng Đ.19 này tuy qui định về quyền
tự do ngôn luận, nhưng cũng qui định
không được dùng quyền này để xâm
phạm an ninh quốc gia. Thự tế thì
luật quốc tế qui định thế nào?
Vũ Quốc Dụng :
Tác giả bài viết trên đã trích dẫn
có 2 phầncủa Điều 19 CƯQT QDSCT,
trong khi điều này có tất cả 3 phần.
Tác giả này đã bỏ đi phần đầu của
Đ.19, qui định Tiến sĩ Hà Vũ có một
quyền tuyệt đối, đó là quyền giữ
quan điểm riêng. Cho nên, khi buộc
tội Tiến sĩ Hà Vũ đang viết dở dang
một bài chưa phổ biến, thì chính
quyền đã vi phạm quyền căn bản này.
Điều 19, khoản 1, CƯQT QDSCT quy
định như sau : "Mỗi người có quyền
giữ vững quan điểm mà không bị ai
can thiệp".
Đối với quyền tự do bày tỏ quan
điểm của Ts Hà Vũ, điều 19 này có
qui định rất rõ về những hạn chế vì
lý do an ninh quốc gia.
Điều 19, khoản 2 và 3 CƯQT QDSCT
như sau : "Mỗi người có quyền tự do
bày tỏ; quyền này bao gồm quyền tự
do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến
mọi loại thông tin và ý kiến bằng
cách truyền khẩu, bằng bút tự hay ấn
phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay
bằng mọi phương tiện truyền thông tự
chọn khác, không kể biên giới quốc
gia.
Việc hành sử những quyền được ghi
tại khoản 2 nêu trên đòi hỏi đương
sự phải có những trách nhiệm và bổn
phận đặc biệt. Do đó, quyền này chỉ
có thể chịu một số giới hạn nhất
định nào đó, nhưng những giới
hạn này phải được qui định bởi luật
pháp và vì nhu cầu: tôn trọng quyền
tự do và thanh danh của người khác;
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự
công cộng, sức khoẻ công cộng và đạo
lý công cộng".
Nhưng chính Liên Hiệp Quốc (LHQ)
cũng biết rằng, việc giới hạn này là
một lỗ hổng dễ bị lợi dụng, nên đã
đưa ra nhiều qui định và giải thích
rất rõ. Thứ nhất tình trạng an ninh
quốc gia bị đe dọa phải được hiểu là
một tình trạng khẩn trương liên quan
đến sự tồn vong thực sự của cả một
đất nước, chứ không phải chỉ là việc
có một vài bài viết đụng chạm đến
quyền lợi của một đảng phái hay một
cá nhân đang cầm quyền. Và Công Ước
quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị
đòi hỏi phải thông báo việc hạn chế
này cho chính Tổng Thư Ký Liên Hiệp
Quốc.
Theo Điều 4, CƯQT QDSCT, "Trong
giai đoạn xảy ra tình trạng khẩn
trương công cộng vì sinh mạng quốc
gia bị đe dọa và tình trạng khẩn
trương này đã được chính thức tuyên
bố, các quốc gia hội viên ký kết
Công Ước này có thể ban hành một số
biện pháp đình chỉ thi hành các
nghĩa vụ của quốc gia, được ấn định
trong Công Ước này. Tuy nhiên những
biện pháp này phải có tính cách thật
cần thiết vì nhu cầu của tình thế,
và không vi phạm các nghĩa vụ của
quốc gia phát sinh từ luật pháp quốc
tế, và cũng không được dùng để kỳ
thị chủng tộc, mầu da, nam nữ, ngôn
ngữ, tôn giáo hay nguồn gốc xã
hội".
Trong mọi trường hợp, những quyền
dân sự và chính trị ghi trong các
điều 6, 7, 8 (khoản 1 và 2), và
trong các điều 11, 15, 16, 18 của
Công Ước không thể bị đình chỉ thi
hành.
Các quốc gia hội viên ký kết Công
Ước này phải lập tức thông báo qua
vị Tổng Thư Ký LHQ cho các quốc gia
hội viên khác tham gia vào Công Ước,
hay biết những điều khoản nào trong
Công Ước đã bị đình chỉ thi hành, và
vì lý do gì. Ngay sau khi chấm dứt
"tình trạng khẩn trương công cộng",
họ cũng phải thông báo theo thủ tục
nói trên.
Thứ nhì, nếu muốn giới hạn quyền
tự do bày tỏ quan điểm, chính quyền
phải làm việc này thật cẩn trọng để
không xâm phạm đến bản chất của
quyền tự do này. Liên Hiệp Quốc đòi
hỏi chính quyền phải chính thức ra
thông báo về tình trạng khẩn trương
công cộng, phải ra một đạo luật qui
định các hạn chế, trong đó quốc gia
thành viên phải biện minh được "sự
cần thiết” của những hạn chế này.
Uỷ ban Nhân quyền LHQ đã giải
thích về Điều 19, khoản 3 CƯQT QDSCT
như sau : (điểm 4 của văn bản
CCPR/C/21/Rev.1, 19.05.1989): "Khoản
3 đặc biệt nhấn mạnh rằng việc thực
thi quyền tự do bày tỏ cũng gắn liền
với những trách nhiệm và bổn phận
đặc biệt. Vì thế, CƯQT QDSCT cho
phép các quốc gia thành viên đặt ra
một số hạn chế đối với quyền này
trong trường hợp có liên quan đến
quyền lợi của các cá nhân khác hoặc
quyền lợi của toàn thể cộng đồng.
Tuy nhiên, nếu một quốc gia thành
viên muốn giới hạn quyền tự do bày
tỏ thì việc đó không được phá hỏng
tự thân quyền này. Khoản 3 đặt ra
những điều kiện và chỉ cho phép quốc
gia thành viên đưa ra những hạn chế
trong khuôn khổ của các điều kiện
sau đây: việc hạn chế phải được "qui
định bằng một đạo luật”; những hạn
chế này chỉ được đặt ra cho một
trong các mục đích qui định bởi điểm
a và b của khoản 3; và quốc gia
thành viên phải biện minh được "sự
cần thiết” của những hạn chế này vì
các mục đích đó.
Tóm lại, CƯQT QDSCT không cho
phép chính quyền Việt Nam dùng một
lý do "vi phạm an ninh quốc gia”
chung chung và mơ hồ để giới hạn
quyền tự do phát biểu của Tiến sĩ Hà
Vũ.
RFI:Còn ông
nghĩ gì về lập luận cho rằng Tiến sĩ
Hà Vũ đã vi phạm quyền dân tộc tự
quyết ghi tại Điều 1 của Công ước
quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị
khi ông đã " trả lời phỏng vấn một
số báo chí nước ngoài và đưa các bài
viết có nội dung đòi thay đổi thể
chế chính trị” ở Việt Nam?
Vũ Quốc Dụng:
Lập luận này là sai, vì tác giả đã
dịch sai từ "political status" là
"chế độ chính trị", với ẩn ý rằng đó
chế độ chính trị này là chế độ cộng
sản mà nhân dân Việt Nam đã tự chọn.
Thực ra trong công pháp quốc tế,
"political status" phải được hiểu là
"qui chế chính trị của lãnh thổ" của
một quốc gia, nghĩa là quốc gia đó ở
trong tình trạng đã được độc lập, bị
bảo hộ hay còn là thuộc địa. Đó là
quyền tự quyết về qui chế chính
trị của lãnh thổ.
Còn quyền quyết định về thể
chế thì lại nằm trong một điều
khác của Công ước là điều 25, liên
quan đến quyền tham gia của các công
dân vào các công việc quốc gia, thí
dụ thông qua việc tham gia bầu cử và
ứng cử tự do. Vì trên thực tế, người
dân Việt Nam không có quyền tự do
bầu cử và ứng cử nên không thể nói
rằng, họ đã tự chọn thể chế cộng sản
hiện nay được.
Hiểu như vậy, thì những việc "trả
lời phỏng vấn một số báo chí nước
ngoài và đưa các bài viết có nội
dung đòi thay đổi thể chế chính trị"
của Tiến sĩ Hà Vũ không thuộc phạm
vi qui định của Đ.1 CƯQT QDSCT.
Những hoạt động của Tiến sĩ Hà Vũ
liên quan đến các quyền tự do tư
tưởng (Đ.18), quyền tự do giữ quan
điểm (Đ.19), quyền tự do phát biểu
quan điểm (Đ.19) và quyền tham gia
vào các công việc quốc gia (Đ.25)
của CƯQT QDSCT.
Nếu làm theo đúng tinh thần của
luật quốc tế, chính quyền Việt Nam
còn phải bảo đảm cho Tiến sĩ Hà Vũ
có cái quyền được phê bình chế độ
cộng sản Việt Nam qua các phương
tiện truyền thông.
RFI: Vừa
qua, em gái Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ là
bà Cù Thị Xuân Bích có nhờ một luật
sư tại Mỹ gửi đơn khiếu nại ra Hội
đồng Nhân quyền LHQ. Tác giả bài báo
cho rằng việc làm này sẽ không có
kết quả. Có thực là những đơn khiếu
nại tại Liên Hiệp Quốc đều vô tác
dụng không?
Vũ Quốc Dụng :
Có lẽ vì không hiểu về các thủ tục
khác nhau của LHQ nên người viết mới
lẫn lộn thủ tục khiếu nại tại Hội
đồng Nhân quyền LHQ với thủ tục
khiếu nại tại Uỷ ban Nhân quyền. Đó
là 2 cơ cấu hoàn toàn khác nhau. Bà
Cù Thị Xuân Bích chỉ làm đơn khiếu
nại với Hội đồng Nhân quyền LHQ mà
thôi, trong khi tác giả lại đem thủ
tục khiếu nại tại Uỷ ban Nhân quyền
ra giải thích. Chúng ta không nên
lấy râu ông nọ cắm cầm bà kia như
vậy.
Việc khiếu nại của bà Bích có kết
quả hay không sẽ tùy thuộc ở thái độ
trả lời của chính phủ Việt Nam đối
với Tổ công tác về việc Bắt giữ Độc
đoán của Hội đồng Nhân quyền LHQ. Vì
Tiến sĩ Hà Vũ sắp bị đưa ra tòa, nên
cơ quan này có thể đã dùng thủ tục
khẩn cấp để yêu cầu phía Việt Nam
phải trả lời. Tùy kết quả phiên tòa,
mà cơ quan này sẽ quyết định các
biện pháp kế tiếp, vì cơ quan LHQ
này sẽ nghiên cứu cả 3 mặt của việc
bắt giữ: 1) Hiến pháp và luật pháp
Việt Nam có cho phép không? 2) Có vi
phạm quyền tự do ngôn luận theo Điều
19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
và CƯQT QDSCT không? 3) Phiên xử có
bảo đảm tính xét xử công bằng không?
RFI: Xin cám
ơn ông Vũ Quốc Dụng, Tổng thư ký
Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế.